Đi tìm nỗi đau
Cuốc bộ cùng cô Nục Thị Khằn “ Phó Chủ tịch xã Yên Sơn, huyện Thông Nông, Cao Bằng - và anh Dương Trọng Khôi “ cán bộ 30A - và o nhà Vi Văn Đôn “ Nông Thị Nhung vốn được nhiửu người Cao Bằng biết đến trên truyửn hình tỉnh; tôi luôn cố hình dung ra cặp vợ chồng nhẽ ra là chị em con bác “ con chú với nhau và những đứa con bất hạnh kia, quả là không dễ.
Tiếp chúng tôi trên căn nhà sà n đặc trưng của người dân tộc Nùng - Cao Bằng, trên là người ở, dưới là lợn, gà , trâu. Với gò má cao, là n da sáng, Nông Thị Nhung nở nụ cười gượng, nhăn nhó, đau khổ.
Căn nhà tối om, ẩm mùi hôi, tôi giật mình nghe tiếng ai thở mạnh hay tiếng khịt... khịt. Các cháu thấy người lạ đó - cô Khằn bảo. Tiến lại gần bếp lửa, những cái đầu bé nhử, mặt mũi nhem nhúa, đôi mắt lồi to, miệng rộng, dáng lù khù, 2 tay luôn quặp trước ngực, đôi chân trần giấu trong tro bếp. Cô Khằn khích lệ: Không sao đâu, người quen nó thích nó mới leo lên cổ ngồi. Nó cũng biết chọn người đấy!.
Cà ng lại gần, những đứa trẻ cà ng tử ra sợ hãi, mắt dáo dác nhìn mẹ, nhìn cô ruột đang bế đứa thứ năm trên tay. Chúng cứ xích dần và o bếp rồi ú ớ không thà nh tiếng.
Nông Thị Nhung và những đứa con bất hạnh. |
Cô Khằn cho biết: Vi Văn Đôn và Nông Thị Nhung là chị em đời thứ hai. Bà Nông Thị Hạ (mẹ Đôn) và ông Nông Văn Dậu (bố Nhung) là chị em ruột cùng mẹ, cùng cha. Ngà y ấy, gia đình họ Nông có nhiửu ruộng đất lắm. Vì không muốn rơi và o tay người ngoà i nên gia đình đã tác hợp cho Vi Văn Đôn và Nông Thị Nhà n vốn là chị em họ lấy nhau. Khi ấy Đôn mới 15 tuổi và Nhung 16 tuổi. Thế là từ anh em cùng họ thà nh thông gia với nhau; chị em bỗng nên nghĩa vợ chồng; bác gái (Nông Thị Hạ) gọi là mẹ chồng; cậu ruột Nông Văn Dậu gọi là bố vợ.
Năm 2000, vợ chồng Đôn “ Nhung sinh hạ đứa con đầu lòng là Vi Văn Đông. Đứa thứ hai (đã mất), đứa thứ ba là Vi Văn Tiến sinh năm 2005, tiếp là Vi Thị Huế (2007), Vi Thị Hiửn (2010). Chỉ riêng Vi Thị Huế là phát triển bình thường như bao đứa trẻ khác, hiện bé đang học mẫu giáo. Còn 3 đứa trẻ kia sinh ra chỉ nặng từ 1 “ 2kg, đầu bé tí, dáng khù khoằm. Các bé phát triển chậm, không nói được nhưng hiểu được. Đông thì nói được một chữ duy nhất, dễ nói nhất là thay - tiếng Nùng nghĩa là chết, do được một người hà ng xóm dạy nói.
Tôi hửi xem ngoà i hình dạng, ba bé có biểu hiện gì đặc biệt không, Nông Thị Nhung cho biết: Các cháu vẫn ăn ngủ bình thường, được cái không ốm đau gì. Dù trời lạnh thế nà y nhưng vẫn không mặc nhiửu áo ấm. Rồi chị kể, tay bế đứa bé khóc ngặt nghẹo: Chúng nó nghịch lắm. Bố mẹ mà là m gì không hợp ý nó là nó đập phá ngay. Nhóm bếp thì nó lấy củi ra dụi tắt đi....
Vi Văn Đông nhìn tôi không chớp rồi bỗng dưng đứng dậy ôm cổ cô ruột định leo lên cổ ngồi. Cô Khằn bảo: Đông còn đi được, Tiến thì không, 2 chân cứ quặp lại không đứng được chỉ ngồi lết và đòi bế thôi. Đông thích ai thì leo ngay lên cổ người đó và ôm đầu họ. Nó leo cây hái quả thì nhanh lắm!.
Vi Văn Đôn đưa bà n tay trái Tiến cho tôi xem: Nó có 6 ngón đấy. Tay Tiến cứ giữ khư khư trước ngực nên tôi không để ý. Ngón cái bên tay phải chẻ đôi là m hai. Cố nịnh bằng gói sữa Fami duy nhất trong balô của mình, tôi mới chụp được bà n tay ấy. Khi bé chỉ máy ảnh đòi xem lại, tôi cho xem, bé nhìn rồi lấy tay gạt đi và ôm mẹ khóc. Từ đó, Tiến sợ cái máy ảnh của tôi khi hướng vử phía cậu.
Vi Văn Tiến với bà n tay phải 6 ngón. |
Và nỗi đau kiếp người
Chiếc bóng điện 25W như không đủ toả sáng cho căn nhà sà n rộng, không đủ soi rọi để tôi nhìn kử¹ 7 mặt con người sống trong căn nhà ấy. Cái bếp củi cũng lò dò, đốm sáng đốm tối. Tôi chỉ mong nó bùng sáng để xua tan cái lạnh len và o khe cửa, cái ảm đạm trong căn nhà đồng hệ và 3 đứa trẻ khốn khổ kia.
Người đà n ông dáng thấp, lò dò xuất hiện từ phía nà o đó của căn nhà mà tôi chưa đi hết. à”ng cười cười, bước chậm, tay quử quạng lối đi. Đó là Vi Văn Khằm - sinh năm 1951, là bố chồng Nông Thị Nhung (nhẽ ra là bác rể). Vợ mất, ông sống cùng vợ chồng Đôn. Giử mắt ông không nhìn thấy gì nữa. Nó cứ mử dần rồi tối hẳn. Hai lần mổ rồi đấy, nhưng không thấy khửi đâu cán bộ à .
Khi tôi hửi tại sao lại tác hợp cho chị em lấy nhau, đôi mắt đử đẫn, ông Khằn bảo ngà y ấy không biết gì đâu, mà người Nùng vẫn có nhà như thế, khi sinh con có sao đâu. Với Nhung và Đôn thì bảo: Ngà y ấy còn bé, ba mẹ đặt đâu thì ngồi đấy. Vử sống với nhau và sinh con. Sinh con rồi mới đi đăng ký theo nghị định Chính phủ. Theo cô Khằm, ngà y ấy chủ tịch xã ở thị trấn, không biết là anh em nên vẫn đăng ký được.
Khi đứa thứ hai mất đi, gia đình bắt đầu đi cúng. Cúng nhiửu tiửn lắm đấy. Cúng nhà ông Bụt, ông Tà o. Đó là tập tục tín ngườ¡ng của bà con nơi đây. à”ng Bụt thì con ma nó nhập và o bảo là do nhặt được nụ hoa xấu (con được gọi là nụ hoa - PV), phải cúng xin nụ hoa tốt. Sinh đứa thứ ba là Vi Thị Huế phát triển bình thường. Cứ tưởng chỉ cúng một lần thôi thì lần sau sẽ không việc gì. Nhưng khi sinh Tiến và Hiửn thì vẫn vậy. Hai vợ chồng giử không dám đẻ nữa. Được cái Đôn thương vợ con. Vợ sinh con như thế, nhưng vẫn chăm sóc và là m lụng chăm chỉ.
Bên cạnh nhà Đôn là Vi Văn Xuân (em trai Đôn). Vẫn là cái nghèo khổ sau nếp nhà gỗ bệt hở toác. Căn nhà bừa bộn đủ thứ quần áo, giẻ rách, xoong nồi. Xuân tính hâm hâm, nói cười cả ngà y mà nghe chừng câu nà o cũng có lý lắm. Nhà ta đẹp lắm đó. Cán bộ chụp đi, ta đi bộ đội vử, là bộ đội Cụ Hồ đấy (rồi Xuân đưa tay lên trán chà o cử)... à€, mà gọi cán bộ là em cho trẻ nhé. Ta cũng trẻ, sinh năm 1985 đấy. Vợ ta còn trẻ hơn.
Đúng là vợ Xuân trẻ thật, sinh năm 1993, học hết lớp 3 đủ chữ rồi. Cô gái bế đứa trẻ trên tay mà tôi ngỡ chỉ là chị em, dù khuôn mặt cũng có phần già hơn tuổi.
Những con người giấu mình lụi hụi trong căn nhà sà n ọp ẹp, sau vách núi ngà n trùng, quần áo mong manh thách thức cái rét vùng cao. Tôi khẽ rùng mình ớn lạnh, chẳng biết vì gió hay vì nỗi đau kiếp người dà i thế.