Cái lý của sự bình ổn
Sau 2 năm chuẩn bị, cuối cùng, Quử¹ bình ổn giá xăng dầu cũng đã ra đời bằng việc Bộ Tà i chính có văn bản hướng dẫn vử hoạt động của nó. Tuy nhiên, đến nay, vẫn còn nhiửu ý kiến vử việc là m thế nà o để quử¹ thực thi có hiệu quả.
Vử việc hình thà nh quử¹ bình ổn giá, Phó Giáo sư - Tiến sử¹ Ngô Trí Long - Học viện Tà i chính cho rằng, không những xăng dầu, tất cả những ngà nh hà ng khác mà Việt Nam phải nhập khẩu nhiửu và giá thế giới biến động mạnh thì đửu cần có biện pháp bình ổn. Việc lập một quử¹ bình ổn là cách cần nghĩ tới.
Một quử¹ bình ổn đối với xăng dầu là cần thiết, nếu xét trên nguyên tắc đảm bảo giá ổn định vì nếu giá thế giới tăng cao thì đưa quử¹ ra để ổn định, còn khi giá thế giới thấp thì thu và o quử¹ để dự phòng.
Tiến sử¹ Nguyễn Minh Phong - Viện Nghiên cứu kinh tế xã hội Hà Nội cũng cho rằng, kinh nghiệm thà nh lập quử¹ bình ổn giá không phải là lạ trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã từng có tiửn lệ. Trước đây, trong thời kử³ chống lạm phát, Chính phủ cũng đã hình thà nh một quử¹ bình ổn chung cho mọi mặt hà ng với nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước, nhưng vử sau quử¹ nà y đã giải thể vì nhiửu lý do.
Đối với xăng dầu, do tầm quan trọng của mặt hà ng nà y và sức ép cao vì giá cả liên tục biến động, nên việc thà nh lập quử¹ là cần thiết.
Việc cần thiết có thể được tính dưới các góc độ, thứ nhất là trong xu hướng giá dầu khó kiểm soát, biến động nhanh, ứng phó trong nước nhiửu khi không kịp, trong cơ chế hệ thống điửu tiết giá còn nặng nử thì rõ rà ng là đặt ra một mức dao động giá, hoặc là quử¹ để DN kinh doanh xăng dầu tăng khả năng can thiệp giữ quyửn lợi trong kinh doanh là cần thiết, ông Phong nói.
Trao đổi vấn đử nà y với các DN đửu nhận được câu trả lời là một quử¹ bình ổn là cần thiết và chính các DN là người đầu tiên đử xuất hình thà nh quử¹. Trong đó, Petrolimex đã mất không ít công sức để xây dựng các đử án trình các cơ quan chức năng xem xét.
Các DN cho rằng, để ổn định tương đối giá bán, thì việc hình thà nh quử¹ dự phòng và bình ổn giá tại DN là rất có ý nghĩa, giúp DN có thêm nguồn lực và chủ động hơn khi đối phó với biến động giá.
Nguồn thu được trích nằm trong kết cấu giá bán. DN sẽ được sử dụng nguồn quử¹ nà y để bình ổn giá cả theo mặt bằng giá đã xác lập và được điửu chỉnh phù hợp với biến động thị trường. Còn người tiêu dùng, nhất là các DN kinh doanh cũng có được một đầu và o ổn định.
Việc trích lập quử¹ được chử đợi hơn khi thị trường xăng dầu Việt Nam gần như đang phải nhập khẩu hoà n toà n.
Trải qua năm 2008, giá xăng dầu biến động liên tục lên đến mức cao nhất gần 150 USD/thùng, khiến cho DN hết khả năng cầm cự, Nhà nước không còn sức để bù lỗ... chấp nhận "buông" giá xăng dầu khi đã phải quyết định tăng giá xăng đột ngột lên thêm 4.500 đồng và đạt mức giá đỉnh điểm 19 ngà n đồng/lít và o tháng 7/2008.
Và ngay sau đó, dù giá cả thế giới còn nhiửu biến động, Chính phủ vẫn quyết định đẩy thực hiện thị trường hóa toà n bộ thị trường xăng dầu.
Khi nguồn bù lỗ từ ngân sách chấm dứt thì việc hình thà nh một quử¹ được nhiửu người hy vọng sẽ đem lại sự bình ổn giá cả cho mặt hà ng chiến lược nà y. Cơ chế giá thị trường, trích lập quử¹ dự phòng có cơ hội áp dụng thuận lợi hơn vì giá xăng dầu thế giới rơi và o giai đoạn sụt giảm nhanh chóng từ gần 150USD xuống có khi dưới 40 USD/thùng
Cần có quử¹ nhưng phải có cơ chế vận hà nh hợp lý. (Ảnh: VNN)
Vẫn chưa trích được đồng nà o
Mặc dù rất dù rất kử³ vọng và o một quử¹ bình ổn những các DN cho biết, cho đến thời điểm nà y, hầu hết các DN vẫn chưa trích được một đồng nà o và o quử¹ bình ổn nà y vì tất cả các mặt hà ng kinh doanh xăng dầu của DN tại thời điểm nà y đửu đang bị lỗ.
Thậm chí, có những mặt hà ng thị trường hóa đầu tiên như xăng thì dù đã được tăng giá ba lần trong tháng 4/2009 nhưng vẫn ở trong trong trạng thái lỗ và việc trích lập quử¹ là không thể.
Thậm chí, có DN sau khi tiếp cận với bản hướng dẫn của Bộ Tà i chính vử quử¹ đã tử ra khá thất vọng và cho biết, với cách nà y thì không chỉ khi thua lỗ và cả khi có lãi việc trích lập quử¹ cũng khó phát huy tác dụng. Vì cách trích lập và điửu hà nh giá cả thông qua hướng dẫn mới đây là khá áp đặt và không phù hợp với cơ chế giá thị trường đã giao cho DN.
Bởi quy định là thực thi cơ chế giá thị trường nhưng DN vẫn chưa hoà n toà n được định giá để đảm bảo kinh doanh có lãi, vẫn còn chịu sự điửu chỉnh của cơ quan nhà nước và chi phối bởi nhiửu lý do khác... Và không có lãi thì việc lập quử¹ là không thể.
Và những nỗi lo khác
à”ng Nguyễn Minh Phong cho rằng, trong bản hướng dẫn hoạt động của quử¹ vẫn có sự cứng nhắc khi quy định chỉ tăng giá 500 đồng. Với một mức cố định đó, với lúc nà y là cao, nhưng lúc khác lại là thấp. Vì thế, theo ông, thay vì 500 đồng, nên điửu chỉnh theo mức giá hiện hà nh, ví dụ 5-10% mức giá. DN sẽ điửu chỉnh theo 1 hạn mức nà o đó.
Đặc biệt, trong bối cảnh chưa cơ chế thị trường hoà n toà n cho xăng dầu, Chính phủ lại chưa có cơ chế kiểm toán, chưa có việc tách bạch giữa thuế phải nộp với việc Nhà nước tạo định mức cho DN để tạo ra định giá minh bạch.
Còn trong cơ chế thị trường, mức chi phí, tính mức lãi hoà n toà n có thể tính được và DN chủ động tính toán. Hiện nay, DN vẫn phải chịu mức nộp thuế bao nhiêu, trích lập các khoản thế nà o, lợi nhuận ra sao do Chính phủ quy định, nhiửu khi nó không còn là giá thị trường. Đây là khó khăn cho đơn vị kinh doanh xăng dầu
à”ng Ngô Trí Long cũng chỉ ra một số điểm bất hợp lý trong thà nh lập quử¹ như: Mục đích lập quử¹ là để đối phó với tăng giá, nhưng lại bắt DN xây dựng giá thà nh định hướng cho cả một quý tiếp theo. Điửu nà y rất khó, vì nếu nắm được giá, DN đã kinh doanh có lãi lớn và có thể không cần đến quử¹.
Hơn nữa theo ông Long, cách tính toán lập quử¹ theo hướng dẫn mới đây là rất rối rắm, phức tạp và có nhiửu yếu tố mang tính chất không phù hợp cơ chế định giá thị trường mà đã nói là giao cho DN, cho nên e rằng khó thực thi.
Vẫn chưa một đồng nà o được đưa và o quử¹ bình ổn. (Ảnh: VNN)
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng bà y tử lo ngại vử cơ chế quản lý quử¹ thế nà o để tránh bị lạm dụng.
à”ng Nguyễn Minh Phong cho rằng, số tiửn trích lập quử¹ chắc chắn là rất lớn và tạo ra một quử¹ lớn từ tiửn của người dân để tại DN, vậy có khả năng bị lạm dụng, ví dụ như khi cần dùng lại không dùng. Hoặc nếu kiểm soát không tốt có thể tạo ra cơ chế để các DN kinh doanh xăng dầu dựa và o đó để tăng giá không đúng thực tế.
à”ng Long cũng cho rằng, trích lập một lượng quử¹ lớn để tại DN, nhưng cơ chế điửu hà nh và quản lý thế nà o chưa rõ. Nếu xảy ra bắt tay giữa các DN hay giữa các cơ quan quản lý với DN để dùng tiửn sai mục đích thì sẽ xử lý thế nà o.
Đây là cả một câu chuyện lớn không thể không nghĩ đến. Quử¹ bình ổn giá trước đây của Chính phủ cũng đã có những bà i học vử sử dụng quử¹ mà cơ quan chức năng phải xử lý nên với quử¹ nà y cũng không thể chủ quan.