Trước tình hình đó các cơ quan chức năng và doanh nghiệp đã đưa ra nhiửu giải pháp khác nhau nhằm tháo gỡ nhưng đâu là giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay?
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, từ đầu năm 2009 đến nay cả nước đã xuất khẩu được trên 632 nghìn tấn thuỷ sản các loại, trị giá gần 2,2 tỷ USD, giảm 5,2% vử lượng và 7,8% vử giá trị so với cùng kử³ năm 2008.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, từ đầu năm 2009 đến nay cả nước đã xuất khẩu được trên 632 nghìn tấn thuỷ sản các loại, trị giá gần 2,2 tỷ USD.
Trong đó, các mặt hà ng thủy sản xuất khẩu chủ lực như tôm sú chiếm 35,4% tổng giá trị xuất khẩu với 776,7 triệu USD, giảm 1,8%; cá tra, basa giảm 4,8%; cá ngừ giảm 14,2%; mực, bạch tuộc giảm 14,8% so với cùng kử³ năm 2008.
Chỉ có mặt hà ng khô tăng 14,2% so với cùng kử³ năm trước. Các thị trường xuất khẩu thủy sản đửu giảm, chỉ riêng thị trường Trung Quốc tăng khoảng 21% so với cùng thới điểm năm 2008.
à”ng Trần Thiện Hải, Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, chưa bao giử ngà nh thủy sản đối mặt với hà ng loạt khó khăn như thời điểm nà y. Hiện ngà nh thuỷ sản chỉ còn giữ được 122 thị trường xuất khẩu, giảm 37 thị trường so với cùng kử³ năm 2008.
Đại diện một doanh nghiệp ở Tp.HCM than thở, nhiửu lúc doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản thấy e ngại khi một số thị trường đưa ra quá nhiửu rà o cản kử¹ thuật để chặn hà ng thủy sản Việt Nam.
Đặc biệt ở Italia, có những phương tiện truyửn thông đã đưa ra các thông tin cho rằng cá tra, basa được nuôi ở nguồn nước ô nhiễm, gây lo ngại cho người tiêu dùng nhưng kiểm chứng thực tế thì không có, khiến cho hai mặt hà ng thủy sản nà y gặp khó khăn khi và o thị trường nà y.
Rồi đến các thị trường khác liên tục xuất hiện những thông tin bất lợi cho hà ng thủy sản Việt Nam khiến không ít doanh nghiệp xuất khẩu lao đao.
à”ng Trần Thiện Hải cho rằng chúng ta cần phải lên kế hoạch vận động và thực hiện việc áp mã số, mã vạch cho cá tra, cá ba sa của từng vùng. Xây dựng những quy chuẩn kử¹ thuật nuôi cụ thể để đối phó được với những hà ng rà o kử¹ thuật của các thị trường trên thế giới.
Để được cấp mã vạch, mỗi tổ chức, cá nhân nuôi cá tra, cá basa phải có một bộ hồ sơ từ nguồn gốc con giống, chế độ dinh dườ¡ng, thức ăn chăn nuôi, điửu kiện vệ sinh vùng nuôi, nhật ký dùng thuốc trị bệnh... Việc theo dõi nghiêm ngặt quá trình nuôi thả sẽ giúp cho mặt hà ng nà y đáp ứng những yêu cầu khắt khe của các thị trường lớn.
à”ng Hải nói thêm, nếu trong trường hợp xảy ra kiện cáo vử chất lượng sản phẩm thì việc truy tìm nguồn gốc cũng dễ dà ng hơn. Chỉ những tổ chức, cá nhân nà o đáp ứng được các điửu kiện nuôi thả thì mới được cấp mã số, mã vạch và được các doanh nghiệp xuất khẩu thu mua chế biến.
Bên cạnh việc củng cố niửm tin cho các thị trường xuất khẩu từ chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần có những hoạt động xúc tiến mở rộng thị trường mới cho sản phẩm cá tra, cá basa nói riêng và các sản phẩm thủy sản nói chung.
à”ng Nguyễn Hữu Dũng, Tổng thư ký VASEP cho biết, đối với mặt hà ng cá tra, cá ba sa, chúng ta nên tiếp tục duy trì hoạt động và có những điửu chỉnh phù hợp với chỉ tiêu xuất khẩu cho 10 doanh nghiệp chế biến được phép xuất khẩu và o thị trường Nga. Cùng với đó sẽ tiếp tục đà m phán để tăng số lượng doanh nghiệp và khối lượng xuất khẩu và o thị trường nà y.
Riêng thị trường Hoa Kử³, theo thông tin từ Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn, trong quý 2/2009 khối lượng cá da trơn bán ra của những nhà chế biến Hoa Kử³ giảm, nhưng sản phẩm cá tra của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường nà y vẫn tăng so với cùng kử³ năm ngoái.
Tuy nhiên việc Hoa Kử³ đưa cá tra của Việt Nam và o danh mục cá da trơn là một điửu bất lợi và chúng ta đang cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của người tiêu dùng ở thị trường nà y để thuyết phục phía Hoa Kử³ loại cá tra Việt Nam ra khửi danh mục cá da trơn.
à”ng Nguyễn Hữu Dũng nhấn mạnh, việc các rà o cản thương mại lập ra ngà y cà ng nhiửu đã gây khó khăn cho thủy sản của Việt Nam đòi hửi các cơ quan chức năng cũng như chính các doanh nghiệp thủy sản phải có những điửu chỉnh hợp lí vử chính sách quản lý và chiến lược kinh doanh.
Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong giai đoạn nà y cần nâng cao chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh, không nên đặt nặng vấn đử sản lượng như năm 2008.
Nhìn từ góc độ pháp lý, luật sư Nguyễn Kiửu Hưng, Đoà n Luật sư Tp.HCM, cho rằng một trong những biện pháp để khắc phục khó khăn từ rà o cản kử¹ thuật là việc tăng cường các chế tà i pháp lý.
Cơ quan chức năng cần đưa ra quy định cụ thể để ngăn chặn những hà nh vi nuôi thả thủy sản bằng các chất gây ảnh hưởng đến sức khửe người tiêu dùng, hà nh vi lừa dối trong chế biến, kinh doanh thủy sản. Các doanh nghiệp xuất khẩu phải có đầy đủ quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu, nếu vi phạm sẽ bị cấm xuất khẩu thủy sản.