Mỗi dân tộc, vùng miửn có một kiểu trang sức riêng song vử hình dạng đửu là những hoa văn quen thuộc như hình kỷ hà , công cụ lao động, nông sản và muông thú cách điệu. Ở Tây Nguyên, nơi có nhiửu hạt cử, đá và gỗ, người dân thường đeo vòng hạt cườm, đá và gỗ mầu sắc rực rỡ như đử, và ng, xanh, tím. Nam giới đeo hạt to, phụ nữ đeo hạt nhử. Một số nơi có trang sức bằng ngà voi, xương thú, gồm khuyên tai, trâm cà i tóc và vòng nhẫn, dùng cả một miếng ngà to mà đeo rất hoà nh tráng.
Ở vùng rừng núi Tây Bắc, Việt Bắc do có mử bạc và để kửµ gió người dân thường đeo vòng bạc, ngoà i ra trên áo còn đính những hà ng khuy chạy dọc từ cổ xuống ngang lưng, chia thà nh hai hà ng hình hoa, bướm; trên mũ nón, túi sách cũng hay gắn những đồng xu tròn rời rạc hoặc xâu chuỗi và bên dây lưng dắt một bộ xà tích (dây chuyửn) bạc lủng lẳng. Có thể nói Tây Bắc, Việt Bắc là một thế giới trang sức bạc độc đáo. Nhiửu dân tộc như người Lự thích gắn trên áo hà ng chục đồng xu bạc.
Ở vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc người dân thường đeo vòng bạc
Người Mông, người Dao lại thích đeo vòng cổ không khép kín mà ở hai đầu nối với một chuỗi xích dà i buông gần hết ngực. Vòng cổ của người Mông có hình ống uốn tròn hoặc bán nguyệt (trăng lườ¡i liửm). Vòng cổ của người Dao cũng có hình tròn nhưng tán dẹt. Từ một chiếc vòng, người Mông thường uốn nhử tạo thà nh hai lớp vòng. Người Dao lại đeo một lúc ba, bốn cái tăng dần vử kích cỡ, theo kiểu đường tròn đồng tâm, cách đửu hoặc buộc cố định.
Những loại trang sức ít nhiửu nói lên điửu kiện sống, phong tục tập quán, lễ nghi và tính cách của người đeo. Do đời sống còn nghèo, đồng bà o các dân tộc ít người luôn coi trang sức là một tà i sản lớn của bản thân và gia đình, đồng thời cũng là vật dụng hà ng ngà y, đồ thử cúng - chữa bệnh, ước hẹn hay trao đổi. Khác với người vùng xuôi, người vùng núi, dân tộc thiểu số không xem trọng lắm đối với tiửn và hiện vật. Mọi người chỉ xem trọng vòng, nhẫn, dây chuyửn...
Trang sức của các cô gái Mông
Khi cưới xin, người dân luôn đòi hửi cô dâu, chú rể phải có một số tư trang là của hồi môn mang theo, trong đó nhất định phải có bao nhiêu chiếc vòng hay nhẫn cưới, vì vậy mà các chà ng trai cô gái phải sắm sửa trang sức ngay từ sớm. Từ nhử, cha mẹ đã phải đánh trang sức cho con. Cô gái nà o có nhiửu trang sức sẽ được nhiửu chà ng trai để ý. Thường khi nhử, nam nữ đeo một loại trang sức, lớn lại đeo một loại khác. Phụ nữ có chồng cũng có một loại nữa. Nhưng, và o một thời điểm nhất định như mùa xuân và lễ hội, mọi người đửu đeo tất cả trang sức lên người bộc lộ sự già u có, vẻ thanh tao hoặc địa vị đối với là ng bản.
Ngoà i để là m đẹp, phần lớn trang sức của các dân tộc nhằm hộ thân. Trên đó có những dấu hiệu của thần linh, gồm những vị thần của từng dân tộc, thần của vùng đất, anh hùng lịch sử và hình ảnh của tổ tiên nhử thế mà khi đeo ai nấy đửu cảm nhận được sự che chở, bao bọc. Trên đó cũng thấy yếu tố đa giáo: Vừa có hình ảnh tô tem theo tín ngườ¡ng tôn thử đồ vật vừa có biểu tượng đạo Lão và Phật giáo...
Trang sức dân tộc đa dạng vử cả chủng loại và chật liệu
Mỗi trang sức nói chung là sự hòa điệu của trời - đất, mặt trời - mặt trăng và con người đem tới sức khửe, niửm vui, an vi, tự tại. Do nhiửu chất liệu, đặc biệt là bạc có thể phòng chữa bệnh tốt nhiửu dân tộc luôn đeo bạc bên mình như trên trán phía đỉnh đầu, hai bên thái dương, dáy tai, quanh cổ, tay và chân. Họ cũng đính bạc trên quần áo theo một hình thù nhất định giống như một tấm mạng che mặt, một cái khăn quanh cổ, một dải yếm đỡ ngực hay một chiếc tạp dử quanh eo để bạc ngăn ngừa độc chất trong gió, mưa, bụi đất và các tia tử ngoại.
Không chỉ đem lại vẻ đẹp rực rỡ, trang sức của các dân tộc còn cho thấy mối quan hệ giữa người với người. Có khi một dòng họ, một cộng đồng được gắn kết bởi một chuỗi hạt đeo cổ, một cái vòng tay, một cái vòng chân. Ở các dân tộc theo chế độ mẫu hệ như người Churu, mọi quyửn hà nh trong nhà đửu nằm trong tay phụ nữ, nhất là người em gái út hoặc chị cả. Người dân coi những chuỗi vòng cổ, tay, nhẫn là biểu tượng cho uy quyửn của gia tộc nên cha mẹ luôn truyửn lại cho con gái, chỉ có người đứng đầu mới được đeo, giữ gìn và và o dịp giỗ tết mới mang ra để mọi người chiêm ngườ¡ng.
Trang sực luôn đi cùng lễ tục - tục xâu lỗ tai, căng tai của người Tây Nguyên
Trang sức cũng luôn đi cùng các lễ tục. Một ví dụ là tục xâu lỗ tai và căng tai của người Tây Nguyên. Cứ đến tuổi cập kê, cả nam lẫn nữ đửu xâu một đoạn nứa, gỗ, đá, bạc hoặc ngà voi qua dáy tai là m lỗ tai rộng ra, dà i hơn và xem đó là đẹp. Từ nhử, các bé gái đã đeo vòng tay. Ngược lại các em trai phải đợi tới khi 15 - 16 tuổi trong lễ trưởng thà nh. Sau khi gia đình giết gà , trâu, lợn, bà y rượu cần, cơm lam cúng già ng, già là ng bử một chiếc vòng tay và o bát tiết cho nó xoay một vòng, để tiên đoán hậu vận của chà ng trai và đưa cho anh chiếc vòng đeo và o cổ tay, như một sự xác nhận với tổ tiên, là ng bản anh đã trưởng thà nh.
Nam nữ các dân tộc cũng có tục trao vòng cầu hôn, và khi trao tặng chiếc vòng đó cho ai thì coi như đã trao thân gửi phận cho người ấy. Ở người Ba Na, khi yêu nhau, chà ng trai cô gái sẽ trao tặng một cái vòng tay như một lời đính ước. Vì một lý do nà o đó mà một bên chưa trả lại chiếc vòng thì không được kết hôn với người khác. Tương tự, ở người Chăm và o ngà y cưới, sau khi khấn lễ chú rể sẽ đeo và o cổ tay cô dâu một chiếc vòng có ba dấu khắc do anh là m, cô dâu cũng đeo và o cổ tay chú rể chiếc vòng có bảy dấu khắc.
Các cô gái Thái Đen vấn tóc cao khi đã có chồng
Ngoà i vòng, người ta cũng có thể trao nhau thứ khác là m tín vật. Ở người Xtiêng, và o ngà y cưới chú rể sẽ đeo một đôi khuyên tai cho cô dâu. Kể từ đây, người vợ sẽ không được tháo ra (chỉ trong trường hợp người chồng chết trẻ mới được tháo đôi khuyên chôn theo chồng). Khi còn nhử, các cô gái Thái Đen đửu để tóc dà i nhưng khi lấy chồng, trong lễ tằng cẩu sẽ phải vấn tóc lên cao, cuộn lại bằng một sợi dây xà tích rồi cà i cố định bằng một cái trâm. Đây không những là cách là m đẹp mà còn là nghi thức cho thấy cô gái đã có nơi có chốn, nam giới không được trêu ghẹo. Và o ngà y hợp hôn, chú rể sẽ đem tới một chiếc hộp đựng một cây trâm bạc để cô dâu cà i lên tóc.
Nhằm tôn vinh vẻ đẹp trang sức và o năm 2006, Bảo tà ng phụ nữ Việt Nam đã trưng bà y 1.000 hiện vật là trang sức từ xưa đến ngà y nay của nam nữ các dân tộc trên cả nước, như Mường, Thái, Tà y Nùng, Cao Lan, Hà Nhì, Mông, Chà m,... gồm vòng cổ, vòng tay, vòng chân, khuyên tai, nhẫn, kẹp tóc, trâm, gương, lược... Đa số đửu bằng bạc trắng hoa xòe; phần nữa là bằng và ng, ngọc, đất nung, tre nứa, gỗ và hoa cử khô.