Nghĩa địa chìm dưới đáy hồ
Một chiửu, lang thang trên con đường bê tông uốn lượn quanh Hồ Tây, đoạn là ng Võng Thị, thuộc phường Bưởi, phóng tầm mắt ra giữa hồ, tôi thấy một hình khối mà u trắng trồi lên giữa biển nước mênh mông, thi thoảng lại bị những con sóng bạc đầu nhấn chìm. Dùng máy ảnh thu zoom hết cỡ, trên mà n hình hiện rõ, đó là 3 ngôi mộ xây liửn. Xa hơn, còn một ngôi mộ nữa, cũng chơ vơ giữa biển nước. Hửi một người bán nước bên gốc đa cổ thụ ngay bử Hồ Tây, thì đó quả là những ngôi mộ. Hà ng năm, cứ đến gần tết, lại có người chèo thuyửn ra giữa Hồ Tây thắp hương, khấn vái.
Nhưng tại sao, những ngôi mộ lại nằm ở giữa hồ? Chẳng lẽ, phong tục người dân ven hồ đem người chết ra giữa hồ chôn cho mát mẻ? Tôi đã tìm gặp một người từng có cả cuộc đời lặn ngụp ở Hồ Tây để tìm lời giải đáp.
Phải vất vả lắm, tôi mới tìm được ông Nguyễn Viết Bân, nguyên Giám đốc Trung tâm cá giống Nhật Tân, thuộc Công ty Đầu tư khai thác Hồ Tây. Khi gợi chuyện Hồ Tây, những kỷ niệm trong ông lại trà n vử. Suốt 40 năm lặn ngụp ở Hồ Tây, ông thuộc nó như thuộc những đường chỉ trên bà n tay mình.
à”ng bắt đầu câu chuyện từ nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bao nhiêu năm nay, các nhà khoa học không ngừng tranh luận và đưa ra các giả thiết vử nơi chôn bà chúa thơ Nôm cũng như đử xuất các biện pháp truy tìm mộ bà . Tuy nhiên, theo ông Bân, việc nà y vô cùng khó, bởi nếu mộ nữ sĩ được đổ bằng "bê tông", thì cũng nằm dưới đáy hồ, còn nếu mộ táng bình thường, thì xác thịt nữ sĩ đã tan và o hà ng triệu mét khối nước Hồ Tây từ hà ng trăm năm nay rồi.
Theo ông Bân, xưa kia Hồ Tây chỉ là một nhánh cụt của sông Hồng, không rộng tới 560 ha và chứa tới 8 triệu m3 nước như hiện nay. Bên Hồ Tây có hà ng chục là ng mạc cổ, cánh đồng, ruộng vườn bám ở mép hồ và cũng có hà ng chục cái nghĩa địa để chôn cất những người trong là ng, hoặc chôn người chết ở các là ng phía trong bãi.
Trong sử sách cũng chép, thời Lê, khi đánh nhau với quân Chăm-pa, bắt được tù binh, đửu tạo điửu kiện cho họ lập kế sinh nhai bằng cách khai hoang vùng đất rậm rạp, heo hút quanh Hồ Tây suốt hà ng trăm năm. Sống ven hồ, chết cũng ở ven hồ, nên theo ông Bân, dưới đáy Hồ Tây, có thể vẫn còn hà ng ngà n ngôi mộ Chăm-pa. Tuy nhiên, thời gian đã quá lâu, lớp bùn đất bồi lấp, dìm những nghĩa địa nà y xuống rất sâu rồi.
Cùng với nghĩa địa của người Chăm-pa, còn hà ng chục nghĩa địa khác của người Việt hình thà nh trên những dải đất hoang ven hồ. Chỉ cần lặn xuống đáy Hồ Tây, khu vực là ng Hồ, Võng Thị, Trích Sà i thuộc phường Bưởi, có thể phát hiện cả một góc hồ là một nghĩa địa khổng lồ, rộng hà ng chục ha. Toà n bộ đáy Hồ Tây ở khu vực phường Bưởi, là một nghĩa địa. Những nghĩa địa hình thà nh từ hà ng ngà n năm trước, đã bị những đợt sóng kiên trì của Hồ Tây đánh tan và nhấn chìm xuống đáy bùn.
Theo khảo sát của ông Bân, thẳng khu vực là ng Xuân La cũng từng có một nghĩa địa rộng chừng 3 ha, bị sóng Hồ Tây nhấn chìm. Giử đứng ở đoạn Xuân La nhìn ra, chỉ thấy biển nước mênh mông, với những đợt sóng lớn đang ngoạm dần và o đường Lạc Long Quân. Cảnh Hồ Tây ở khu vực Phủ Tây Hồ rất đẹp, song ít ai biết rằng dưới mặt nước xanh biêng biếc ấy, cách bử và i trăm mét cũng có một nghĩa địa rộng mênh mông với dà y đặc các ngôi mộ nhấp nhô. Rất nhiửu xuồng máy của các doanh nghiệp quản lý, khai thác Hồ Tây bị gãy chân vịt mỗi khi chạy qua khu vực nà y vì chạm và o mộ.
à”ng Bân từng là người trực tiếp chứng kiến nghĩa địa cuối cùng bị sóng Hồ Tây nhấn chìm xuống đáy, đó là nghĩa địa của là ng Nghi Tà m. Hồi những năm 60, 70 của thế kỷ trước, khi quân Mử¹ bắn phá Hà Nội, ông Bân cùng các chiến sĩ bộ đội đưa pháo cao xạ ra hòn đảo nằm giữa Hồ Tây, gần là ng Nghi Tà m, cách bử chừng 200m để ngắm bắn máy bay địch.
Hòn đảo thực tế là một gò đất trong nghĩa địa cổ. Khi đó, xung quanh hòn đảo ken dà y những ngôi mộ nằm xâm xấp mặt nước đang bị sóng đánh chìm dần. Những con sóng bạc đầu của Hồ Tây trong những ngà y gió lớn cứ nối đuôi nhau xô và o đảo, đánh tan cả cái đảo ấy. Giử đứng bên là ng Nghi Tà m nhìn ra, không còn thấy bóng dáng hòn đảo xưa đâu nữa. Nghĩa địa cổ mênh mông của là ng Nghi Tà m đã nằm sâu dưới đáy hồ. Mùa nước cạn, lội xuống khu nghĩa địa nà y sâu đến ngực, còn mùa nước lớn, ngập quá đầu. Những con tà u lớn kéo nhà nổi Hồ Tây vẫn chạy qua lại trên khu nghĩa địa nà y mà không hử hấn gì.
Săn đồ cổ ở nghĩa địa
Năm 1966, cơ quan của kử¹ sư Nguyễn Viết Bân (thuộc Công ty Đầu tư khai thác Hồ Tây) đóng ở là ng Yên Phụ. Là m việc ở đây, rồi lấy vợ người trong là ng, nên không chuyện gì ở Hồ Tây và là ng Yên Phụ mà ông không biết. Theo ông kể, suốt hà ng chục năm trời, người dân ở một số ngôi là ng quanh Hồ Tây đã kiếm sống, thậm chí là m già u từ việc săn đồ cổ ở những nghĩa địa dưới đáy Hồ Tây.
Những đợt sóng kiên trì của Hồ Tây kéo dà i hà ng trăm năm đã đánh tan hà ng chục nghĩa địa cổ, là m bật nắp quan tà i, phơi xương cốt trắng hếu, lăn lốc dưới đáy hồ. Chính vì thế, những năm 70 đến 80 của thế kỷ trước, là ng Yên Phụ nổi lên phong trà o mò gỗ quý tại những nghĩa địa dưới lòng Hồ Tây. Hầu hết những thanh niên trẻ khửe, lặn giửi ở Yên Phụ đửu tham gia mò gỗ. Ngà y ngà y họ lặp ngụp, mò mẫm dưới hồ, hễ phát hiện có ván thiên là m bằng gỗ quý chìa lên khửi mặt bùn là họ tiến hà nh đà o bới lấy gỗ. Họ dùng những chiếc thuốn sắt chọc sâu xuống lớp bùn đất để truy tìm gỗ và những vật quý nằm sâu dưới bùn.
Ngà y trước, rừng còn nhiửu, nên khi người già u chết được chôn trong những chiếc quan tà i gỗ và ng tâm, đinh hương, thậm chí pơmu dà y cộp, nặng trịch. Những loại gỗ quý nà y nằm trong lòng đất và i trăm năm không mối mọt, ngâm dưới bùn, nước hà ng thế kỷ vẫn rắn chắc. Dân ở các là ng ven hồ phá tung những ngôi mộ, lấy những tấm áo quan bán lại cho các xưởng mộc chế tác ra đủ các loại đồ dùng như giường, tủ, bà n ghế, cánh cửa...
Ngoà i việc người dân ven Hồ Tây lặn mò quan tà i đóng bằng gỗ tốt, thu lượm tiểu sà nh kè bử chắn sóng giữ đất, thì một thời có cả đội ngũ chuyên lặn mò đồ cổ trong những nghĩa địa dưới đáy Hồ Tây. Theo lời đồn, nhiửu người còn bới được cả hũ và ng trong những chiếc quan tà i. Những chiếc vòng và ng, vòng bạc, khuyên tai và ng thì kiếm được rất nhiửu. Tuy nhiên, thứ nhiửu nhất là chum, lọ, bát đĩa, bình gốm... toà n là những đồ cổ có tuổi và i trăm năm. Xưa kia, người già u chết thường được chia của chôn theo. Sóng Hồ Tây đánh bật mộ, những món đồ cổ nà y cũng lăn lóc đầy dưới đáy hồ.
Giới săn đồ cổ không những mò mẫm, tìm kiếm, mà họ còn bới cả những ngôi mộ chìm dưới lòng đất lên để lấy đồ cổ. Nhiửu ngôi mộ đổ kiên cố bằng hợp chất vôi-cát-mật, bên trong có xác ướp, chôn sâu dưới đáy bùn, cũng bị đám săn đồ cổ đà o bật lên. Thậm chí, họ dùng cả mìn để đánh bật nắp. Trong những ngôi mộ hợp chất nà y thường có một số đồ cổ giá trị hoặc và ng bạc, tiửn cổ.
à”ng Nguyễn Văn Tiến (hiện quản lý thuyửn vịt ở hồ Trúc Bạch) kể rằng, ông là người có thâm niên 20 năm kéo cá thuê ở Hồ Tây, từng lượm được rất nhiửu đồ cổ đem bán. Phần lớn những món đồ ông lượm được là do dính và o lưới vét. Trong số đó, có một cái hũ rất đẹp. Lòng chiếc hũ tráng men xanh, mặt ngoà i có nhiửu hình thù cổ quái.
à”ng Tiến kiếm được chiếc hũ đó trong một hoà n cảnh khá đặc biệt. Đợt đó, khi kéo lưới và o sát khu vực nghĩa địa cạnh là ng Võng Thị thì lưới bị mắc và o nắp chiếc quan tà i kiến mọi người không thể kéo được. à”ng cùng đám thợ tìm cách gỡ lưới thì chiếc quan tà i bật nắp. Trong chiếc quan tà i có một số đồ cổ bằng sà nh, sứ, trong đó chiếc hũ là đẹp nhất. Vì thấy chiếc hũ đẹp quá nên ông Tiến không bán, mà đem cọ rửa sạch sẽ rồi cắt và o trong tủ.
Một hôm, không kiếm đâu ra bình muối dưa, vợ ông Tiến đã bê chiếc hũ cổ ra... dùng tạm. Điửu lạ là dưa muối cả chục ngà y không thấy lên men chua, lá dưa vẫn tươi nguyên như ngà y mới đổ và o. Sợ quá, ông Tiến đổ dưa muối đi, rửa sạch chiếc hũ rồi lại cất và o trong tủ. Thế nhưng, và i ngà y sau, bọn trộm phá khóa nhà và khóa tủ rồi lấy mất chiếc hũ. Cũng thật kử³ lạ, bọn trộm không lấy gì khác ngoà i chiếc hũ ông lượm được dưới đáy Hồ Tây. Đến bây giử ông Tiến vẫn tiếc hùi hụi.
Đặc sản tôm Hồ Tây bắt từ... nghĩa địa?
Với thâm niên 20 năm lặn ngụp kéo cá ở Hồ Tây, ông Nguyễn Văn Tiến là người rất am hiểu luồng lạch Hồ Tây. Chỗ nà o lắm cá, lắm tôm ông đửu biết cả. Mỗi khi thả lưới, động hồ, những con trắm đen nặng 40 - 50kg, to như quả bom lừ đừ dưới nước, lại rồng rắn kéo nhau và o trú trong những khu nghĩa địa. Những điểm nà y mấp mô, lắm vật cản nên lưới vét bất lực. Do đó, mỗi khi kéo cá, người ta phải dùng gậy gộc sục xạo, xua đuổi đà n cá ra ngoà i mới bắt được.
Mỗi khi lưới quây và o khu nghĩa địa, thứ mắc và o lưới nhiửu nhất là xương cốt, đầu lâu. Những cái đầu lâu ngâm trong nước hà ng trăm năm mà không mục nát, cứ trắng lốp, rất sạch sẽ, trông như đầu lâu là m bằng thạch cao. Trong các khu nghĩa địa, cá trê và tôm là hai loà i trú ẩn nhiửu nhất. Giống cá trê thường thích đà o hang ở những khu vực có mồ mả. Chúng đà o tung cả mộ để là m hang ổ. Đà n cá trên cũng góp phần rất lớn cùng với sóng phá tan các khu mồ mả dưới đáy Hồ Tây.
Giử đây, đi lang thang quanh Hồ Tây, đến các khu vực có nghĩa địa nằm dưới, có thể gặp nhiửu người sống ven hồ lặn ngụp mò tôm. Tại những nghĩa địa nà y, người ta thả xuống hà ng vạn rọ tôm, rồi hà ng ngà y lội xuống nhấc rọ giũ lấy tôm. Những người mò tôm ở các là ng ven hồ thậm chí còn nhấc cả đầu lâu lên để nhặt lấy những con tôm trú ngụ ở bên trong.
Điửu đặc biệt là tôm hồ Tây rất ngon, rất bùi. Người mê ẩm thực cả nước đửu biết đến món tôm Hồ Tây nổi tiếng, vẫn còn hiện diện bên đường Thanh Niên. Chỉ có điửu, tôm ở đây có phải là m từ tôm Hồ Tây, và có phải bắt từ khu nghĩa địa dưới đáy Hồ Tây hay không thì không ai biết được. Theo ông Nguyễn Văn Tiến, trước đây, mỗi mẻ lưới có đến có tạ tôm dính và o, nhưng giử đáy Hồ Tây ô nhiễm rất nặng ở nhiửu điểm nên tôm không phát triển được nữa. Mỗi mẻ lưới vét may ra chỉ có một và i ký tôm dính và o lưới mà thôi. Người ta chỉ có thể nhặt nhạnh tôm bằng cách thả rọ bẫy ở những khu vực có nghĩa địa...