|
Chưa khơi dậy niửm đam mê
Tại hội thảo Là m gì để người học tìm đến với nhóm ngà nh KHXH-NV? do trường ĐH Văn Hiến tổ chức và o cuối tháng 3 vừa qua, ông Nguyễn Đức Hiệp, giáo viên Vật lý từng dạy tại trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa (TP.HCM) khẳng định, bản thân các môn KHXH-NV không thiếu sức hút, chỉ là không có người chuyển tải sức hút đó đến học trò. Trong thời gian dạy học, tôi thấy các em học ban khoa học tự nhiên cũng không hử ghét học Văn. Các em vẫn rất thích thú nếu được khơi dậy sự lãng mạn trong tâm hồn bằng phương pháp giảng dạy cuốn hút. Các trường nên tìm cách tiếp cận học sinh (HS) phổ thông bằng cách tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đử để kích thích các em đến với các ngà nh KHXH-NV, ông Hiệp tâm tư.
Chính vì không cảm thấy yêu thích nên nhiửu HS không tiếp tục theo đuổi những môn KHXH-NV khi lên các bậc học cao hơn. N.Y.Nhi, sinh viên trường ĐH Tà i chính - Marketing, tâm sự: Hồi học THCS, giáo viên Văn của em dạy rất hay, em đã từng nghĩ sẽ học những ngà nh liên quan đến KHXH-NV. Nhưng khi học lên THPT, hứng thú ấy của em bị giảm dần bởi thầy, cô dạy Văn, Sử, Địa không kích thích được niửm yêu thích của em nữa. Và rồi em quyết định học ngà nh Ngân hà ng.
TS Hồ Quốc Hùng - Trưởng ngà nh Việt Nam học khoa Ngữ văn trường ĐH Văn Hiến nhận định: Cần phải thay đổi cách dạy của người thầy. Lâu nay, cách dạy kiểu hà n lâm đã triệt tiêu sự hứng thú của HS. Cách kiểm tra đầu giử, cách chấm điểm theo khả năng thuộc bà i văn mẫu... đã khiến HS sợ hãi, học gạo, thiếu sự sáng tạo và giảm khả năng tưởng tượng. TS Đoà n Lê Giang - Trưởng khoa Văn học và Ngôn ngữ trường ĐH KHXH-NV (ĐH Quốc gia TP.HCM) cũng đồng tình, khi cho rằng việc dạy các môn KHXH-NV ở trường phổ thông lẫn đại học chưa thu hút được HS-SV. HS thấy không có ích lợi gì từ các môn học mà chỉ cần thuộc bà i nên không còn yêu thích.
Giảm sức hút
Hơn chục năm vử trước, các ngà nh như Luật, Tâm lý học, Xã hội học, Ngữ văn... thu hút rất nhiửu thí sinh đăng ký dự thi. Thế nhưng, đến thời điểm nà y, ngoà i Báo chí và Luật, những ngà nh còn lại luôn trong tình trạng tuyển mãi không đủ.
TS Lê Hữu Phước, Phó hiệu trưởng trường ĐH KHXH-NV (ĐH Quốc gia TP.HCM) cho biết: Có nhiửu ngà nh của trường phải xét tuyển nguyện vọng (NV) 2, trong đó có rất nhiửu ngà nh truyửn thống như Tâm lý học, Xã hội học... Năm 2009, có 9 ngà nh phải xét tuyển NV2 và năm 2010 đến 12 ngà nh không tuyển đủ NV1. Trường ĐH KHXH-NV (ĐH Quốc gia Hà Nội) cũng phải tuyển hơn 100 chỉ tiêu NV2 cho các ngà nh Việt Nam học, Ngôn ngữ học, Thông tin thư viện...
Tình trạng nà y ở bậc học phổ thông cà ng ảm đạm. HS chọn ban Cơ bản và ban Khoa học tự nhiên luôn chiếm số lượng đông gấp nhiửu lần so với ban KHXH-NV. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, số HS theo học ban KHXH-NV trên toà n quốc giảm dần: nếu năm học 2006-2007 có 6,41% HS ban KHXH-NV, thì đến năm 2008-2009 chỉ còn 2%.
Nghiên cứu của thạc sĩ Đỗ Văn Bình - khoa Xã hội học trường ĐH Văn Hiến cũng cho thấy những năm gần đây nhiửu trường THPT không có HS nà o chọn và o ban KHXH-NV khiến trường phải nhập ban nà y và o ban cơ bản. Trong 24.000 hồ sơ đăng ký dự thi ĐH, CĐ nộp và o cơ quan đại diện Bộ GD-ĐT tại TP.HCM ở kử³ tuyển sinh năm 2010, số lượng thí sinh dự thi khối C chưa tới 1.200 bộ.
Số lượng đăng ký dự thi khối C thấp, điểm trúng tuyển thấp khiến đầu và o của các ngà nh KHXH-NV cũng thấp. TS Đoà n Lê Giang lo ngại: Học sinh giửi thì không lựa chọn những ngà nh nà y mà đổ xô và o y dược, ngoại thương, kinh tế. Một khi đầu và o thấp thì e rằng chất lượng đầu ra cũng khó có thể đạt chất lượng.
Mất cân đối
Không chỉ trong công tác đà o tạo mà trong nghiên cứu khoa học cũng xảy ra sự mất cân đối giữa các đử tà i vử khoa học tự nhiên, công nghệ với KHXH-NV. Tại ĐH Quốc gia TP.HCM, tổng kinh phí cấp cho các đử tà i trọng điểm cấp Bộ năm 2004 là 3.443 triệu đồng, thì đử tà i KHXH-NV chỉ chiếm 560 triệu (đạt 1/6).
Đử cương nghiên cứu KHXH-NV khu vực Nam Bộ trong giai đoạn 2005-2010 của ĐH Quốc gia TP.HCM cũng đã ghi nhận: Hiện nay trong một bộ, sở Khoa học và công nghệ, công việc KHXH-NV nhiửu lắm cũng chỉ chiếm một vụ, một phòng; trong khi có vô số vụ, vô số phòng lo các vấn đử khoa học tự nhiên và công nghệ. Ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, chi phí nghiên cứu một đử tà i khoa học tự nhiên và công nghệ lên tới hà ng tỉ đồng là chuyện bình thường, trong khi chi phí cho các đử tà i KHXH-NV thì cực kử³ ít ửi.
Phải tự đổi mới
Vử chương trình học, GS-TS Trần Tuấn Lộ - Trưởng khoa Tâm lý học trường ĐH Văn Hiến, cho rằng: Cần phải bử bớt tính lý thuyết, triết lý, tư tưởng trong các môn học mà thay và o đó là tăng cường tính ứng dụng, tính nghử nghiệp. Có những cuốn giáo trình 40 năm trước không khác gì so với ngà y nay. Trường nà o dám đổi mới, sáng tạo chương trình học và phương pháp giảng dạy thì trường đó sẽ thu hút được người học. Thạc sĩ Đỗ Văn Bình đử xuất: Viện Khoa học xã hội Việt Nam cần phối hợp với Bộ Khoa học - Công nghệ xây dựng đử án phát triển các ngà nh KHXH-NV vòng 10-20 năm tới để trình Chính phủ phê duyệt. Trong đó, cần đử cập đến đổi mới phương pháp giảng dạy, cải tiến giáo trình, quy chế nghiên cứu, thực hà nh, việc là m sau khi tốt nghiệp....
TS Lê Hữu Phước cho rằng: Bản thân trường ĐH KHXH-NV phải tự đổi mới để là m cho các ngà nh học nà y trở nên hấp dẫn bằng 3 điửu kiện: Chương trình đà o tạo phải hà i hòa giữa hà n lâm với thực tế; Mở rộng đối tượng tuyển sinh: tuyển cả khối A cho các ngà nh như Triết học, Đô thị học, Xã hội học, khối B cho các ngà nh như Tâm lý học. Với những ngà nh thu hút thí sinh thì thi tuyển, những ngà nh còn lại có thể chỉ xét tuyển hoặc ghi danh.