Người mẹ - là đề tài bất tận của nghệ thuật, nhất là thi ca. Thơ Việt Nam hiện đại viết về mẹ rất phong phú, có nhiều bài hay bởi mẹ là người đã khơi nguồn cảm hứng cho các nhà thơ. Thật thú vị trong quá trình tìm đọc, nghiên cứu những bài thơ về chủ đề người phụ nữ, tác giả bài viết đã bắt gặp tới 5 bài thơ đều có nhan đề chỉ một từ duy nhất "Mẹ" của các tác giả Nguyễn Ngọc Oánh, Phan Thị Thanh Nhàn, Trần Quốc Minh, Bằng Việt và Đoàn Thị Ngọc Thu. Tuy chủ đề giống nhau, đối tượng hướng tới giống nhau, cảm xúc về mẹ cơ bản tương đồng nhưng các sắc thái biểu hiện về mỗi người mẹ, cách thức ngợi ca tri ân mẹ ở mỗi tác giả lại khác nhau. Tất cả tạo nên chân dung đa dạng về người mẹ với vẻ đẹp ngời sáng phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.
Đón con sau giờ trực chiến - Ảnh của Mầu Hoàng Thiết
"Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều"
Đây là câu thơ của Tố Hữu rút từ bài thơ “Chào xuân 67” đã khái quát sâu sắc phẩm chất của người mẹ Việt Nam. Càng trong vất vả gian lao, phẩm chất người mẹ, vẻ đẹp của người phụ nữ càng tỏa sáng. Có 4/5 bài thơ trên ra đời trong thời kỳ đất nước chiến tranh, cuộc sống vô vàn thiếu thốn, gian lao (riêng bài thơ của Đoàn Thị Ngọc Thu ra đời sau). Tất cả những người mẹ trong chùm thơ đều sống trong cảnh nghèo khó, thường ngày các mẹ lao động tăng gia sản xuất cật lực để nuôi con cái và cả gia đình. Trong thơ của Nguyễn Ngọc Oánh, chân dung người mẹ hiện lên thật sống động: "Cánh bàng thà lái heo may/ Mẹ gầy cái dáng khô gầy cành tre/ Gót chai nứt nẻ đông hè/ Ruộng sâu bấm mãi đã tòe ngón chân". Chỉ mấy câu thơ tác giả đã làm hiện lên rõ nét cả cuộc đời cơ cực của mẹ. Thơ chẳng là điêu khắc mà có thể chạm khắc sống động hình ảnh người mẹ Việt Nam chân thật và xúc động biết bao! Cách diễn đạt "tòe ngón chân" rất gợi cảm, quen thuộc với lối nói của người nông dân chứng tỏ tác giả am hiểu lời ăn tiếng nói của quần chúng rất sâu sắc. Mẹ không những chăm chỉ việc đồng áng, lo cái ăn, mẹ còn cần cù may vá, lo cái mặc cho cả nhà: "Mẹ ngồi vá áo trước sân/ Vá bao mong ước tay sần mũi kim". Ngôn ngữ thơ tinh tế chứng tỏ người con đã thấu hiểu nỗi đau thể chất và cả khát khao của lòng mẹ: mong các con được ấm áo no cơm, riêng mẹ chẳng nề hà, dù bản thân vất vả đến đâu. Mỗi bữa ăn giấc ngủ, bao giờ mẹ cũng nhường nhịn cho con: “Bát canh đắng lá chân chim/ Lẫn vài con tép mẹ tìm dành con/ Co ro một mảnh chăn mòn/ Tàn đêm giấc ngủ vẫn còn ngoài chăn”.
Còn trong bài thơ “Mẹ” của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, ta gặp người mẹ trong một hoàn cảnh thương tâm và nể phục khác. Nhân vật trữ tình đã tâm sự với bạn đọc về hoàn cảnh: "Lớn lên cha đã không còn/ Chỉ riêng mình mẹ sớm hôm tảo tần". Tuy thiếu đi bờ vai trụ cột, người bạn đời của mẹ không may đã về cõi vĩnh hằng, chỉ mình mẹ gánh nặng trên vai cả một gia đình đông đúc. Nhưng mẹ chẳng lo nghĩ hạnh phúc cho riêng mình, dành cả tuổi xuân còn lại chăm lo cho các con. Tuy vừa làm mẹ vừa làm cha, bao nhiêu khó nhọc chồng chất nhưng mẹ chẳng chút phàn nàn. Mẹ làm lụng đến chai sạn tay chân "bàn tay mẹ đủ nếp nhăn" chỉ để chăm lo cho các con đủ ăn, đủ mặc, những mong các con mẹ từng ngày “dần dần lớn khôn”. Niềm mong ước ấy đã thành hiện thực, giờ đây con mẹ đã “đôi lứa vuông tròn”, dù đánh đổi “Bao nhiêu năm mẹ héo hon một mình”. Hình hài mẹ tuy khô héo vì sương gió cuộc đời nhưng lòng mẹ rạng ngời hạnh phúc. Nhà thơ đã rất sáng tạo khi dùng hình ảnh so sánh đắt giá: “Mẹ như mặt đất sâu xa/ Lặng im nuôi dưỡng lúa hoa ngàn đời”. Mặt đất rộng lớn, tận dâng tận hiến cho người và muôn vật tất thảy, riêng đất chỉ một màu nâu giản dị như sắc áo quen thuộc của các bà mẹ thường mặc. Nhờ có đất mẹ nuôi dưỡng mà các con nên người có ích và lúa - hoa, biểu trưng cho các giá trị vật chất - tinh thần được tồn tại, phát triển và ngàn đời bất diệt.
Đến với bài thơ “Mẹ” của Trần Quốc Minh, người đọc đến với không gian yên tĩnh, nóng bức của buổi trưa hè. Nhờ lời ru của mẹ cùng với “Kẽo cà tiếng võng” đưa êm và bàn tay mẹ không ngừng quạt mà cháu bé có giấc ngủ say nồng. Ấn tượng nhất trong thi phẩm là những câu: “Lời ru có gió mùa thu/ Bàn tay mẹ quạt mẹ đưa gió về/ Những ngôi sao thức ngoài kia/ Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con/ Đêm nay con ngủ giấc tròn/ Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”. Vạn vật chìm trong yên nghỉ, duy chỉ có lời ru của mẹ vẫn thức, mẹ không chỉ quan tâm, chăm sóc con thơ về thể chất mà còn chăm lo nuôi dưỡng tâm hồn con trẻ bằng lời ru ngọt ngào – suối nguồn của tình thương “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn” (Nguyễn Duy). Cho dù đi hết cuộc đời, mỗi người chúng ta cũng không đi trọn, không thấu hiểu hết những triết lý nhân sinh hàng ngàn đời được kết tinh trong lời ru của mẹ. Những kỷ niệm đẹp về mẹ và tình thương mẹ dành cho các con như một miền ký ức lung linh càng làm ngời sáng vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
“Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời”
Khác với nhiều đồng nghiệp, nhà thơ tài danh Bằng Việt lại viết về người mẹ ở vùng hậu cứ giàu lòng yêu nước, yêu thương chiến sĩ như con đẻ của mình. Tác giả hóa thân vào người lính chiến đấu bị thương nơi tuyến lửa, được người mẹ hậu cứ đưa về “ân cần, lặng lẽ” chăm sóc. Dẫu cuộc sống của mẹ không ít khó khăn vì người chồng của mẹ “mất lâu rồi”, mẹ có ba người con đều đã lên đường ra trận và hiện tại đang “chiến đấu nơi xa”, bao nhiêu tình cảm nhung nhớ các con đẻ “mẹ dồn con hết cả”. Cảm động biết bao khi người lính trong cơn mê sảng “Con nói mớ những núi rừng xa lạ/ Tỉnh ra rồi, có mẹ hóa thành quê”. Câu thơ có sức khái quát rất lớn bởi mẹ đâu chỉ là một cá nhân nữa, tấm lòng mẹ chính là tình cảm của bao bà mẹ Việt Nam khác, mẹ là hiện thân của quê hương yêu dấu. Mẹ thương lo cho chiến sĩ khi yếu mệt, mẹ vui mừng rạng rỡ thấy vết thương ấy dần đỡ và “hể hả ngắm con hồng sắc mặt”. Mẹ rất muốn có con ở bên cho ấm cửa vui nhà nhưng vì nước còn giặc phải đánh đuổi chúng đi nên khi biết người lính muốn trở về đơn vị:“Mẹ cười xòa nước mắt ứa hàng mi/ Đi đánh Mỹ khi nào tau có giữ”. Mẹ đã vui lòng tiễn con trở lại mặt trận tiếp tục chiến đấu. Chúng ta thật sự biết ơn tấm lòng yêu thương, sự hy sinh và dâng hiến của mẹ vì các con bộ đội, vì đất nước nói chung.
Trở lại với bài thơ “Mẹ” của Nguyễn Ngọc Oánh, người đọc cảm kích trước tấm lòng của mẹ. Cho dù gia cảnh mẹ nghèo túng, ăn mặc chưa đủ no ấm, rất cần người lao động xốc vác nhưng chưa bao giờ mẹ thiếu đức hy sinh. Khi đất nước cần đến, “Tất cả cho tiền tuyến tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, mẹ sẵn lòng tiễn đưa đứa con trai yêu quý của mình lên đường đánh giặc cứu nước. Để con mình yên tâm lúc đi xa, mẹ cố nén nỗi đau xa cách: “Tiễn con ra chốn chiến trường/ Gạt thầm nước mắt mong đường con khô/ Hai tay hết sẻ lại cho/ Còn phần mẹ một thân cò qua sông”. Bài thơ khiến chúng ta không chỉ thương yêu mà còn vô cùng kính phục những người mẹ vị tha, dâng hiến những đứa con ruột thịt – tài sản vô giá của mình – cho Tổ quốc. Tấm lòng hy sinh lặng thầm của những người phụ nữ cao cả biết bao.
Trong cả chùm thơ cùng nhan đề “Mẹ”, riêng thi phẩm của Đoàn Thị Ngọc Thu viết năm 1988 là viết theo thể thơ tự do, rất hợp với sự đa dạng, phóng khoáng của cảm xúc. Đoạn mở đầu như một thước phim sống động kể về hoàn cảnh của mẹ giống như hàng vạn phụ nữ Việt Nam khác: “Cả cuộc đời cha đi bộ đội/ Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương/ Và trên ngực là những vết thương/ Cứ trở gió lại đau nhức nhối/ Chiếc ba lô gió sương đã gội/ Gia tài cha tặng mẹ... chỉ thế thôi”. Cha của chủ thể trữ tình - ra trận chiến đấu, người mẹ ở lại gánh vác hết thảy: chăm lo nuôi dạy các con và gánh vác đủ mọi công việc của gia đình, xã hội và hậu phương kháng chiến. Giặc tan rồi, người cha trở lại quê nhà, "quà về cho mẹ" là mái tóc đã bạc vì gian lao, cả những vết thương trên mình "nhức nhối" cùng chiếc ba lô "gió sương đã gội" bạc màu, sờn rách. Song với mẹ và người thân, sự trở về của cha đúng là món quà vô giá nhất. Hưởng niềm vui hội ngộ mẹ chỉ "lặng lẽ", "mắt rạng ngời" hạnh phúc nhưng xót đau không nhỏ vì tuổi xuân của mẹ đã vuột qua: "Hai mươi năm ngày cưới/ Đến hôm nay đời chồng vợ bắt đầu". Đọc đoạn thơ, ai cũng rưng rưng xúc động vì thương xót và cảm phục mẹ cùng những lứa đôi khác "Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau" (Nguyễn Mỹ). Thương và phục mẹ hơn nữa bởi "Hai mươi năm lấy nhau/ Mẹ đẻ con và nuôi con một mình". "Hai mươi năm" là hơn bảy ngàn ngày, "một mình" mẹ vật lộn mưu sinh, "một mình" mẹ vượt cạn sinh nở, "một mình" mẹ nuôi con lớn khôn. Để làm nên điều ấy là cả “núi của non công”, biết bao mồ hôi và nước mắt đã đổ... Nhờ những người như mẹ, Tổ quốc mới có được lớp lớp đứa con lớn để "ra đi/ ra đi" cứu nước tiếp bước ông cha để có được ngày“Toàn thắng về ta”, thống nhất đất nước, hòa bình và no ấm như ngày nay.
Ngày Quốc tế phụ nữ, đọc lại những bài thơ cùng có nhan đề “Mẹ” lại càng thêm ý nghĩa. Chùm thơ đã hợp nên bức chân dung tổng hòa đẹp đẽ về người phụ nữ Việt Nam: giàu lòng yêu nước, nhân ái, bao dung khiêm nhường, hy sinh cao cả vì gia đình, vì đất nước…