Theo các chuyên gia, sở dĩ tồn tại nghịch lý như vậy là do quy trình quản lý rau an toà n đang tồn tại rất nhiửu lỗ hổng dẫn đến người tiêu dùng đặt dấu hửi vử độ an toà n của rau sạch trên thị trường. Vì vậy, vấn đử bức thiết là cần thêm cơ chế cho rau sạch và o siêu thị.
Hẹp lắm cửa và o siêu thị...
Phòng Trồng trọt, sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Hà Nội cho biết, hiện tại chỉ có 2.105 ha diện tích sản xuất sản phẩm rau đúng nghĩa an toà n, được cán bộ kử¹ thuật chỉ đạo giám sát, theo tiêu chuẩn của Bộ NN&PTNT, chiếm 18,1% trên tổng số 11.650 ha canh tác.
Còn theo ước tính của Hiệp hội siêu thị Hà Nội, sản lượng rau an toà n và o được các siêu thị chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn, từ 5-10% so với sản phẩm rau nói chung. Vì vậy, chưa đáp ứng được nhu cầu đang hết sức dồi dà o của thị trường.
Chị Trần Thị Hay - một nông dân ở Thôn Ba Chữ, Vân Nội chia sẻ: Hưởng ứng chủ trương trồng rau sạch của xã, sau gần hai tháng rườ¡i, đầu tư ngót 1,5 triệu đồng cho chi phí, chăm sóc từ kử¹ thuật, thuốc trừ sâu, phân bón...cho hơn một sà o ruộng, theo đúng quy trình của rau an toà n. Tuy nhiên, khi đem ra chợ bán, giá rau an toà n cũng chỉ cao hơn so với rau không an toà n khoảng 500 đồng /1 kg, ở các loại su hà o, bắp cải...Vì thế, tiửn lãi thu được chỉ vửn vẹn có 1 triệu đồng.
Buôn bán rau sạch ở chợ Vân Trì, Đông Anh
Không chỉ có những người nông dân, mà ngay cả HTX rau an toà n Mạnh Quử³nh, Vân Nội - vùng cung cấp rau sạch hà ng đầu cho thị trường Hà Nội cũng gặp khó.
Bà Đỗ Thị Vũ Quử³nh - Chủ nhiệm HTX cho biết: Đã hơn một năm nay, đầu tư và o 10 ha trồng rau an toà n với trên hai chục hộ dân, đảm bảo đúng quy trình sản xuất. Nhưng HTX chỉ tiêu thụ hết cơ bản 50% sản lượng rau, chủ yếu là rau cho khu vực Nội Bà i, còn lại 50% lượng rau rất khó tiêu thụ và o các siêu thị, nhà hà ng...một phần vì giá cả đầu tư cho rau sạch cao hơn 30 - 35% so với rau không an toà n. Trong khi, các siêu thị lại yêu cầu giá cao hơn một chút so với rau bình thường. Một phần nhà nước chưa thực sự hỗ trợ tốt nông dân và HTX trong việc tìm đầu mối tiêu thụ với các DN, nên cửa cho rau sạch và o được siêu thị vẫn rất hẹp. Và hệ lụy tiếp theo là rau an toà n bị đánh đồng với những loại rau khác tại các chợ.
Mục sở thị cảnh bán rau tấp nập tại chợ rau sạch Vân Trì, Vân Nội, Đông Anh, mới thấy sự quản lý rau ở đây lửng tới mức nà o. Hà ng trăm kẻ mua, người bán tập trung trên diện tích và i nghìn m2, phía ngoà i hà ng chục phương tiện, từ xe thồ, xe ba gác, xe máy... chở đầy rau cứ thoải mái ra và o chợ bằng hai cổng lớn, khiến khó ai phân biệt được đâu là rau an toà n và rau không an toà n.
Cần cơ chế quản lý và tiêu thụ rau sạch
Theo nhận định của Phòng Trồng trọt, sở NN&PTNT Hà Nội, việc sản xuất của đa phần nông dân đang rất manh mún và nhử lẻ. Trong khi đó, người nông dân phải rất đa năng vừa lo sản xuất, vừa phải lo sơ chế, bao gói sản phẩm...rồi tự đưa đi tiêu thụ. Vì vậy, quản lý rau sạch rất khó khả thi.
Còn với đánh giá của ông Hà Văn Khanh - Trưởng phòng kinh tế, huyện Đông Anh: Thực tế nhà nước chưa chỉ đạo trong công tác tiêu thụ, mà tự nông dân phải tìm đường ra cho rau an toà n.
Rau sạch được bà y bán la liệt tại chợ.
Đử xuất những giải pháp trước mắt cũng như lâu dà i, ông Vũ Vinh Phú - Chủ tịch Hiệp hội siêu thị Hà Nội, nguyên Phó ban VSATTP cho rằng: Để là m thay đổi thói quen canh tác tự phát của nông dân, Sở NN&PTNT Hà Nội phải quản lý quy trình sạch cho trồng rau an toà n bằng những văn bản pháp lý cụ thể. Quan trọng là khâu đầu và o phải gắn tên các hộ sản xuất chịu trách nhiệm với từng luống rau cụ thể. Cùng với đó, phải đưa mã số, mã vạch và o trong từng bao bì rau an toà n, để khi xé ra thì mất niêm phong, chứ để hở túi ni lon như hiện tại, thì bất cứ ai cũng có thể nhét rau không an toà n và o chung để bán.
khâu vận chuyển, phải giao trách nhiệm cụ thể cho từng người lái xe, người áp tải... tránh việc trà trộn các loại rau với nhau. Vấn đử là phải công khai danh sách đơn vị sản xuất, cung cấp đến từng siêu thị, chủ tiểu thương bán rau sạch. Đồng thời các đơn vị bán hà ng phải ký và o từng lượng rau được bán ra thị trường. Tất cả các khâu phải theo một quy trình khép kín, theo chuỗi quản lý bằng chứng từ, có như vậy người tiêu dùng mới có lòng tin với rau an toà n.
Cũng theo ông Phú, vì giá rau sạch đang ở mức cao hơn các loại rau khác khoảng 30 - 40%. Vì vậy, nhà nước nên xem xét miễn thuế VAT và thủy lợi phí ngay cho nông dân. Tiến tới, vùng rau của các HTX phải là cổ đông của các siêu thị cung cấp rau. Có như vậy, người sản xuất mới gắn bó lợi ích với doanh nghiệp, thúc đẩy năng suất lên cao, hạ giá thà nh thấp.
Cùng với đó, sở Công thương, sở Tà i chính phải là người cầm trịch duyệt giá thà nh sản phẩm, tránh kiểu mua đứt, bán đoạn như hiện nay.
Hà Nội đã chuẩn bị một đử án quy hoạch sản xuất vùng rau an toà n với quy mô lớn. Thiết nghĩ, những kinh nghiệm và đử xuất trên của các chuyên gia và cơ quan quản lý rất cần, để sở NN&PTNT Hà Nội tham khảo và để bản đử án mới thực sự liên kết chặt chẽ được mắt xích của ba nhà trong phát triển mặt hà ng nông sản.