Theo đó, việc nhập khẩu, phá dỡ tà u biển đã qua sử dụng phải bảo đảm an toà n, an ninh hà ng hải, an toà n lao động, bảo vệ sức khửe con người và môi trường. Việc phá dỡ tà u biển đã qua sử dụng chỉ được thực hiện tại cơ sở phá dỡ tà u biển đã được phép hoạt động theo quy định.
Bên cạnh đó, tà u biển đã qua sử dụng được nhập khẩu để phá dỡ phải thuộc các trường hợp quy định; người nhập khẩu tà u phải có bản kê khai danh mục vật liệu trên tà u theo mẫu quy định; tà u biển đã qua sử dụng nhập khẩu để phá dỡ không được hoán cải, nâng cấp, chuyển đổi mục đích sử dụng và không được chuyển nhượng, mua, bán lại.
Tà u biển đã qua sử dụng nhập khẩu để phá dỡ phải được đưa và o cơ sở phá dỡ trong vòng 30 ngà y kể từ ngà y hoà n thà nh thủ tục hải quan nhưng không vượt quá 90 ngà y kể từ ngà y tà u đến cảng biển đầu tiên của Việt Nam; thời gian phá dỡ tà u biển không được kéo dà i quá 180 ngà y kể từ ngà y đưa tà u và o cơ sở phá dỡ.
Tà u biển đã qua sử dụng để phá dỡ không trong tình trạng thế chấp hoặc khiếu nại hà ng hải.
Theo Nghị định, doanh nghiệp phá dỡ tà u biển có đủ 3 điửu kiện sau đây được Bộ Giao thông vận tải cấp Giấy phép nhập khẩu tà u biển để phá dỡ:
1- Có đăng ký ngà nh nghử kinh doanh nhập khẩu tà u biển đã qua sử dụng để phá dỡ.
2- Có các bộ phận chuyên trách thực hiện nghiệp vụ vử nhập khẩu; pháp luật hà ng hải; an toà n lao động và bảo vệ môi trường.
3- Có vốn pháp định tối thiểu 50 tỷ đồng Việt Nam.
Giấy phép nhập khẩu tà u biển đã qua sử dụng để phá dỡ có hiệu lực thực hiện trong 5 năm kể từ ngà y cấp.
Nghị định cũng quy định các loại tà u biển đã qua sử dụng được phép nhập khẩu để phá dỡ gồm: Tà u chở hà ng khô (hà ng tổng hợp, hà ng rời, hà ng thiết bị, gỗ dăm, gỗ cây, ngũ cốc, hà ng đóng bao, hà ng sắt thép); tà u công-ten-nơ; tà u chở quặng; tà u chở hà ng lửng (dầu thô, dầu sản phẩm, dầu thực vật); tà u chở gas, khí hóa lửng; tà u Ro-Ro, tà u khách, sà lan biển, phà biển; già n khoan nổi; già n khoan tự nâng; tà u chứa nổi; phương tiện chứa nổi và chuyển tải sản phẩm; các loại tà u biển khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đử nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Nghị định có hiệu lực từ ngà y 15/1/2015.