Theo các chuyên gia, nếu tiếp tục nới lửng, tổng lượng tiửn trong nửn kinh tế sẽ tăng thêm trong khi các yếu tố tiửm ẩn của lạm phát như chi phí đẩy, cầu kéo vẫn còn hiện hữu và sẽ kích hoạt lạm phát trở lại.
Nhưng nếu thắt chặt thì sản xuất chưa kịp thoát khửi đình trệ, doanh nghiệp đã phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn đúng và o lúc cần vốn và vốn chạy lòng vòng như từng xảy ra giữa năm 2008 do cuộc đua lãi suất.
Vậy, một chính sách tiửn tệ cho thời kử³ sau suy giảm kinh tế như thế nà o được coi là hợp lý? Chúng tôi xin giới thiệu một số quan điểm của các chuyên gia và lãnh đạo doanh nghiệp vử chủ đử nà y.
Không nhất thiết sử dụng tất thảy công cụ
(PGS.TS. Lê Văn Tử - Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế công nghiệp Long An)
Sau thời kử³ suy thoái phải là thời kử³ kinh tế tăng trưởng, và do vậy, chính sách tiửn tệ không thể không hướng theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Một chính sách tiửn tệ tích cực của hậu suy thoái, trước hết cần phải kiểm soát lạm phát ổn định giá cả, ổn định sức mua đối nội của đồng tiửn.
Do vậy, Ngân hà ng Trung ương luôn coi lạm phát, ổn định tiửn tệ là m mục tiêu hà ng đầu thuộc chính sách tiửn tệ của mình, nhằm là m tiửn đử cho nửn kinh tế phát triển trong thời kử³ hậu suy thoái. Tuy rằng, ổn định sức mua đồng tiửn là một đại lượng tương đối và ở nước ta hiện nay, phấn đấu giữ cho được mức lạm phát ở một con số là hết sức lý tưởng.
Tiếp theo là ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiửn. Giá trị đối ngoại của đồng tiửn được đo bằng tỉ giá hối đoái thả nổi và nó liên quan đến hà ng loạt yếu tố như giá thà nh xuất khẩu và nhập khẩu, mức lạm phát của mỗi đồng tiửn trong một cặp tiửn tệ, tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế, yếu tố tâm lý và chính sách can thiệp của Ngân hà ng Trung ương.
Cần coi sự ổn định tỉ giá hối đoái như là sợi chỉ đử xuyên suốt quá trình điửu hà nh tỉ giá hối đoái, tức giữ nó trong một biên độ dao động nà o đó. Như vậy, xét vử trường thế, tỉ giá hối đoái phải được ổn định và xét vử đoản thế, tỉ giá hối đoái phải được điửu chỉnh. Giữa hai thời kử³ đó phải là sự ổn định.
Thông thường các công cụ thực hiện chính sách tiửn tệ thường được sử dụng đó là tái cấp vốn, lãi suất tín dụng, dự trữ tối thiểu bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở.
Ở các nước, không phải người ta sử dụng tất thảy 4 công cụ vừa nêu trên mà người ta chỉ sử dụng một số hoặc thậm chí một công cụ cụ thể. Mục đích cơ bản của nó là sử dụng công cụ nà o có thể rút bớt được tiửn ra khửi lưu thông một cách có hiệu quả, khi đang có lạm phát, và tăng thêm lượng tiửn cung ứng và o lưu thông, khi đang có thiểu phát. Cũng có thể là giữ nguyên cơ số tiửn tệ trong lưu thông khi tình hình tiửn tệ tương đối ổn định.
Quan điểm cần sử dụng đồng bộ tất cả 4 công cụ xem ra không thích hợp. Được biết ở Canada, người ta không sử dụng tất cả 4 công cụ vừa nêu trên.
Khi vận hà nh chính sách tiửn tệ theo hướng mở rộng người ta yêu cầu các khoản tiửn gửi của các tổ chức hà nh chính và sự nghiệp phải gửi ở ngân hà ng thương mại để hình thà nh khả năng tạo tiửn, và khi thi hà nh chính sách tiửn tệ thắt chặt thì yêu cầu gửi ở Ngân hà ng Trung ương".
4 trọng tâm của chính sách tiửn tệ
(à”ng Trần Bắc Hà - Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hà ng Đầu tư và Phát triển - BIDV)
"Sau thời kử³ suy giảm kinh tế, Ngân hà ng Nhà nước cần có biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm cân đối giữa việc thực hiện mục tiêu kích cầu của Chính phủ với mục tiêu ổn định giá cả, lãi suất, tỷ giá và bảo đảm an toà n hệ thống các cơ sở tín dụng. Bởi vậy, thời gian tới, Ngân hà ng Nhà nước nên hướng và o các trọng tâm sau:
Thứ nhất, thực hiện chủ trương điửu hà nh chính sách tiửn tệ theo hướng nới lửng một cách thận trọng. Việc thực hiện chính sách nới lửng tiửn tệ có thể khiến lạm phát trở lại, nhất là trong điửu kiện thực hiện giải ngân nguồn vốn kích cầu và các yếu tố tiửm ẩn của lạm phát vẫn còn hiện hữu như hiệu quả đầu tư thấp, năng suất lao động thấp, thậm chí cả việc tăng giá điện, nước...
Do đó, một mặt nên tiếp tục giảm lãi suất để khuyến khích doanh nghiệp chống suy thoái trên diện rộng; mặt khác, thực hiện kiểm soát tăng trưởng tín dụng và cung tiửn nhưng phải đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh.
Tiếp đó, cần tăng sự linh hoạt trong chính sách điửu hà nh tỷ giá để hướng sản xuất từ khu vực ngoại thương (xuất khẩu) sang khu vực phi ngoại thương (thị trường nội địa) nhằm giảm sự phụ thuộc và o xuất khẩu, kích thích tiêu dùng trong nước.
Thứ hai, giảm giá dần VND có kiểm soát. Chính sách nà y sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu, là m giảm thâm hụt cán cân thương mại trong bối cảnh chi tiêu Chính phủ rất lớn. Nếu thực hiện chính sách nà y phải tiến hà nh song song với kiểm soát chặt chẽ thâm hụt ngân sách nhà nước và lãi suất tiết kiệm.
Cũng cần lưu ý vử tác động tiêu cực có thể xuất hiện từ đây là nguy cơ lạm phát, nợ của Chính phủ và doanh nghiệp sẽ tăng tương đối, phản ứng tiêu cực của người dân với VND...
Thứ ba, cần kết hợp hà i hòa, linh hoạt giữa điửu hà nh tỷ giá và lãi suất, sử dụng thích hợp các công cụ dự trữ bắt buộc, tín phiếu, thị trường mở... trong từng giai đoạn cụ thể; tăng cường phối hợp giữa các bộ ngà nh để bảo đảm nhất quán giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là chính sách tiửn tệ và tà i khóa.
Thứ tư, rà soát đầu tư công theo hướng cơ cấu lại đầu tư khu vực nà y và xác định mục tiêu ưu tiên đối với chúng. Theo đó, cần giãn tiến độ đối với các dự án sử dụng nhiửu vốn, tập trung vốn cho các dự án sử dụng nhiửu lao động, ít nhập khẩu và chính sách tiửn tệ cũng phải hướng tới sự điửu chỉnh nà y".
Sử dụng linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở
(TS. Nguyễn Đức Hưởng - Tổng giám đốc LienVietBank)
"Bên cạnh chính sách lãi suất, tỷ giá thì nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ vô cùng quan trọng trong điửu hà nh chính sách tiửn tệ đối với thời kử³ sau suy giảm kinh tế. Bởi lẽ, đó là biện pháp hữu hiệu đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và an toà n cho hệ thống ngân hà ng.
Vì vậy, Ngân hà ng Nhà nước cần điửu hà nh linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở để ổn định lãi suất phù hợp và điửu tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng ở mức hợp lý. Vử các giải pháp liên quan đến thị trường mở, tôi cho rằng, Ngân hà ng Nhà nước nên triển khai một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, xây dựng nghiệp vụ thị trường mở thực sự là một kênh đầu tư hấp dẫn đối với các thà nh viên tham gia. Mặc dù thị trường mở được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, tức là những người kinh doanh chứng khoán không bị bắt buộc mua hoặc bán theo một giá ấn định, nhưng Ngân hà ng Trung ương có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng việc điửu chỉnh giá để chúng trở nên hấp dẫn đối tác.
Ngoà i ra, Ngân hà ng Nhà nước cũng nên khuyến khích hơn nữa sự tham gia của các tổ chức tín dụng khác ngoà i các ngân hà ng thương mại. Hiện nay các thà nh viên tham gia thị trường mở chủ yếu mới chỉ là các ngân hà ng thương mại thiếu đi sự hưởng ứng của các loại hình tổ chức tín dụng khác.
Tiếp theo, đa dạng hà ng hóa trên thị trường mở. Các công cụ tà i chính được phép giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở bao gồm các loại giấy tử có giá phát hà nh bằng đồng Việt Nam như tín phiếu Ngân hà ng Nhà nước, trái phiếu Chính phủ (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư do Quử¹ hỗ trợ phát hà nh công trái) và trái phiếu chính quyửn địa phương do UBND Tp.HCM và Hà Nội phát hà nh.
Tuy nhiên, thời gian tới, Ngân hà ng Nhà nước nên cho phép mở rộng thêm các đối tượng giấy tử có giá được phép sử dụng trên thị trường mở bao gồm cả trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ, chứng chỉ tiửn gửi, hợp đồng mua lại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh.
Mặt khác, cần đa dạng kì hạn giao dịch. Kử³ hạn phổ biến trên thị trường mở là 7 ngà y mặc dù Ngân hà ng Nhà nước cũng đã bổ sung thêm các kử³ hạn dà i hơn như 28 ngà y, 56 ngà y, 84 ngà y, 112 ngà y, 140 ngà y, 182 ngà y (6 tháng), 273 ngà y (9 tháng) và 364 ngà y (12 tháng).
Tuy nhiên đa phần các kử³ hạn giao dịch chủ yếu phổ biến từ 6 tháng trở lại. Vì vậy, nếu tiếp tục đa dạng các giao dịch khác nhau trong một phiên giao dịch thì các ngân hà ng thương mại có điửu kiện lựa chọn tham gia đặt thầu phù hợp với nhu cầu điửu tiết vốn khả dụng của mình.
Cùng đó, cải tiến vử công nghệ và đơn giản hóa thủ tục hà nh chính hoà n thiện các qui định vử nghiệp vụ thị trường mở, tạo điửu kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia và o thị trường mở.
Cuối cùng, coi trọng giải pháp trao đổi đẩy mạnh hoạt động tham khảo và lấy ý kiến từ doanh nghiệp chủ chốt và người dân trong việc đưa ra và triển khai các công cụ chính sách tiửn tệ.
Việc thảo luận bà n bạc với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp chịu tác động trực tiếp từ các chính sách tiửn tệ không những giúp giải quyết đúng các vấn đử mà còn giúp giải quyết một cách hiệu quả, tạo sự đồng thuận cao và tránh được khoảng trống giữa chính sách và thực tiễn".