Chính sách tiửn tệ thời hậu suy giảm kinh tế

Tin tức - Ngày đăng : 08:36, 31/08/2009

Nửn kinh tế đang từng bước thoát khửi thời kử³ suy giảm và  lúc nà y, dường như mọi quan tâm đửu hướng vử chính sách tiửn tệ: nới lửng hay thắt chặt?

Theo các chuyên gia, nếu tiếp tục nới lửng, tổng lượng tiửn trong nửn kinh tế sẽ tăng thêm trong khi các yếu tố tiửm ẩn của lạm phát như chi phí đẩy, cầu kéo vẫn còn hiện hữu và  sẽ kích hoạt lạm phát trở lại.

Nhưng nếu thắt chặt thì sản xuất chưa kịp thoát khửi đình trệ, doanh nghiệp đã phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn đúng và o lúc cần vốn và  vốn chạy lòng vòng như từng xảy ra giữa năm 2008 do cuộc đua lãi suất.

Vậy, một chính sách tiửn tệ cho thời kử³ sau suy giảm kinh tế như thế nà o được coi là  hợp lý? Chúng tôi xin giới thiệu một số quan điểm của các chuyên gia và  lãnh đạo doanh nghiệp vử chủ đử nà y.

Không nhất thiết sử­ dụng tất thảy công cụ

(PGS.TS. Lê Văn Tử - Phó hiệu trưởng Аại học Kinh tế công nghiệp Long An)

Sau thời kử³ suy thoái phải là  thời kử³ kinh tế tăng trưởng, và  do vậy, chính sách tiửn tệ không thể không hướng theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Một chính sách tiửn tệ tích cực của hậu suy thoái, trước hết cần phải kiểm soát lạm phát ổn định giá cả, ổn định sức mua đối nội của đồng tiửn.

Do vậy, Ngân hà ng Trung ương luôn coi lạm phát, ổn định tiửn tệ là m mục tiêu hà ng đầu thuộc chính sách tiửn tệ của mình, nhằm là m tiửn đử cho nửn kinh tế phát triển trong thời kử³ hậu suy thoái. Tuy rằng, ổn định sức mua đồng tiửn là  một đại lượng tương đối và  ở nước ta hiện nay, phấn đấu giữ cho được mức lạm phát ở một con số là  hết sức lý tưởng.

Tiếp theo là  ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiửn. Giá trị đối ngoại của đồng tiửn được đo bằng tỉ giá hối đoái thả nổi và  nó liên quan đến hà ng loạt yếu tố như giá thà nh xuất khẩu và  nhập khẩu, mức lạm phát của mỗi đồng tiửn trong một cặp tiửn tệ, tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế, yếu tố tâm lý và  chính sách can thiệp của Ngân hà ng Trung ương.

Cần coi sự ổn định tỉ giá hối đoái như là  sợi chỉ đử xuyên suốt quá trình điửu hà nh tỉ giá hối đoái, tức giữ nó trong một biên độ dao động nà o đó. Như vậy, xét vử trường thế, tỉ giá hối đoái phải được ổn định và  xét vử đoản thế, tỉ giá hối đoái phải được điửu chỉnh. Giữa hai thời kử³ đó phải là  sự ổn định.

Thông thường các công cụ thực hiện chính sách tiửn tệ thường được sử­ dụng đó là  tái cấp vốn, lãi suất tín dụng, dự trữ tối thiểu bắt buộc và  nghiệp vụ thị trường mở.

Ở các nước, không phải người ta sử­ dụng tất thảy 4 công cụ vừa nêu trên mà  người ta chỉ sử­ dụng một số hoặc thậm chí một công cụ cụ thể. Mục đích cơ bản của nó là  sử­ dụng công cụ nà o có thể rút bớt được tiửn ra khửi lưu thông một cách có hiệu quả, khi đang có lạm phát, và  tăng thêm lượng tiửn cung ứng và o lưu thông, khi đang có thiểu phát. Cũng có thể là  giữ nguyên cơ số tiửn tệ trong lưu thông khi tình hình tiửn tệ tương đối ổn định.

Quan điểm cần sử­ dụng đồng bộ tất cả 4 công cụ xem ra không thích hợp. Аược biết ở Canada, người ta không sử­ dụng tất cả 4 công cụ vừa nêu trên.

Khi vận hà nh chính sách tiửn tệ theo hướng mở rộng người ta yêu cầu các khoản tiửn gử­i của các tổ chức hà nh chính và  sự nghiệp phải gử­i ở ngân hà ng thương mại để hình thà nh khả năng tạo tiửn, và  khi thi hà nh chính sách tiửn tệ thắt chặt thì yêu cầu gử­i ở Ngân hà ng Trung ương".

4 trọng tâm của chính sách tiửn tệ

(à”ng Trần Bắc Hà  - Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hà ng Аầu tư và  Phát triển - BIDV)

"Sau thời kử³ suy giảm kinh tế, Ngân hà ng Nhà  nước cần có biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm cân đối giữa việc thực hiện mục tiêu kích cầu của Chính phủ với mục tiêu ổn định giá cả, lãi suất, tỷ giá và  bảo đảm an toà n hệ thống các cơ sở tín dụng. Bởi vậy, thời gian tới, Ngân hà ng Nhà  nước nên hướng và o các trọng tâm sau:

Thứ nhất, thực hiện chủ trương điửu hà nh chính sách tiửn tệ theo hướng nới lửng một cách thận trọng. Việc thực hiện chính sách nới lửng tiửn tệ có thể khiến lạm phát trở lại, nhất là  trong điửu kiện thực hiện giải ngân nguồn vốn kích cầu và  các yếu tố tiửm ẩn của lạm phát vẫn còn hiện hữu như hiệu quả đầu tư thấp, năng suất lao động thấp, thậm chí cả việc tăng giá điện, nước...

Do đó, một mặt nên tiếp tục giảm lãi suất để khuyến khích doanh nghiệp chống suy thoái trên diện rộng; mặt khác, thực hiện kiểm soát tăng trưởng tín dụng và  cung tiửn nhưng phải đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh.

Tiếp đó, cần tăng sự linh hoạt trong chính sách điửu hà nh tỷ giá để hướng sản xuất từ khu vực ngoại thương (xuất khẩu) sang khu vực phi ngoại thương (thị trường nội địa) nhằm giảm sự phụ thuộc và o xuất khẩu, kích thích tiêu dùng trong nước.

Thứ hai, giảm giá dần VND có kiểm soát. Chính sách nà y sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu, là m giảm thâm hụt cán cân thương mại trong bối cảnh chi tiêu Chính phủ rất lớn. Nếu thực hiện chính sách nà y phải tiến hà nh song song với kiểm soát chặt chẽ thâm hụt ngân sách nhà  nước và  lãi suất tiết kiệm.

Cũng cần lưu ý vử tác động tiêu cực có thể xuất hiện từ đây là  nguy cơ lạm phát, nợ của Chính phủ và  doanh nghiệp sẽ tăng tương đối, phản ứng tiêu cực của người dân với VND...

Thứ ba, cần kết hợp hà i hòa, linh hoạt giữa điửu hà nh tỷ giá và  lãi suất, sử­ dụng thích hợp các công cụ dự trữ bắt buộc, tín phiếu, thị trường mở... trong từng giai đoạn cụ thể; tăng cường phối hợp giữa các bộ ngà nh để bảo đảm nhất quán giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là  chính sách tiửn tệ và  tà i khóa.

Thứ tư, rà  soát đầu tư công theo hướng cơ cấu lại đầu tư khu vực nà y và  xác định mục tiêu ưu tiên đối với chúng. Theo đó, cần giãn tiến độ đối với các dự án sử­ dụng nhiửu vốn, tập trung vốn cho các dự án sử­ dụng nhiửu lao động, ít nhập khẩu và  chính sách tiửn tệ cũng phải hướng tới sự điửu chỉnh nà y".

Sử­ dụng linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở

(TS. Nguyễn Аức Hưởng - Tổng giám đốc LienVietBank)

"Bên cạnh chính sách lãi suất, tỷ giá thì nghiệp vụ thị trường mở được coi là  công cụ vô cùng quan trọng trong điửu hà nh chính sách tiửn tệ đối với thời kử³ sau suy giảm kinh tế. Bởi lẽ, đó là  biện pháp hữu hiệu đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và  an toà n cho hệ thống ngân hà ng.

Vì vậy, Ngân hà ng Nhà  nước cần điửu hà nh linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở để ổn định lãi suất phù hợp và  điửu tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng ở mức hợp lý. Vử các giải pháp liên quan đến thị trường mở, tôi cho rằng, Ngân hà ng Nhà  nước nên triển khai một số giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, xây dựng nghiệp vụ thị trường mở thực sự là  một kênh đầu tư hấp dẫn đối với các thà nh viên tham gia. Mặc dù thị trường mở được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, tức là  những người kinh doanh chứng khoán không bị bắt buộc mua hoặc bán theo một giá ấn định, nhưng Ngân hà ng Trung ương có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng việc điửu chỉnh giá để chúng trở nên hấp dẫn đối tác.

Ngoà i ra, Ngân hà ng Nhà  nước cũng nên khuyến khích hơn nữa sự tham gia của các tổ chức tín dụng khác ngoà i các ngân hà ng thương mại. Hiện nay các thà nh viên tham gia thị trường mở chủ yếu mới chỉ là  các ngân hà ng thương mại thiếu đi sự hưởng ứng của các loại hình tổ chức tín dụng khác.

Tiếp theo, đa dạng hà ng hóa trên thị trường mở. Các công cụ tà i chính được phép giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở bao gồm các loại giấy tử có giá phát hà nh bằng đồng Việt Nam như tín phiếu Ngân hà ng Nhà  nước, trái phiếu Chính phủ (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư do Quử¹ hỗ trợ phát hà nh công trái) và  trái phiếu chính quyửn địa phương do UBND Tp.HCM và  Hà  Nội phát hà nh.

Tuy nhiên, thời gian tới, Ngân hà ng Nhà  nước nên cho phép mở rộng thêm các đối tượng giấy tử có giá được phép sử­ dụng trên thị trường mở bao gồm cả trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ, chứng chỉ tiửn gử­i, hợp đồng mua lại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh.

Mặt khác, cần đa dạng kì hạn giao dịch. Kử³ hạn phổ biến trên thị trường mở là  7 ngà y mặc dù Ngân hà ng Nhà  nước cũng đã bổ sung thêm các kử³ hạn dà i hơn như 28 ngà y, 56 ngà y, 84 ngà y, 112 ngà y, 140 ngà y, 182 ngà y (6 tháng), 273 ngà y (9 tháng) và  364 ngà y (12 tháng).

Tuy nhiên đa phần các kử³ hạn giao dịch chủ yếu phổ biến từ 6 tháng trở lại. Vì vậy, nếu tiếp tục đa dạng các giao dịch khác nhau trong một phiên giao dịch thì các ngân hà ng thương mại có điửu kiện lựa chọn tham gia đặt thầu phù hợp với nhu cầu điửu tiết vốn khả dụng của mình.

Cùng đó, cải tiến vử công nghệ và  đơn giản hóa thủ tục hà nh chính hoà n thiện các qui định vử nghiệp vụ thị trường mở, tạo điửu kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia và o thị trường mở.

Cuối cùng, coi trọng giải pháp trao đổi đẩy mạnh hoạt động tham khảo và  lấy ý kiến từ doanh nghiệp chủ chốt và  người dân trong việc đưa ra và  triển khai các công cụ chính sách tiửn tệ.

Việc thảo luận bà n bạc với các doanh nghiệp, nhất là  các doanh nghiệp chịu tác động trực tiếp từ các chính sách tiửn tệ không những giúp giải quyết đúng các vấn đử mà  còn giúp giải quyết một cách hiệu quả, tạo sự đồng thuận cao và  tránh được khoảng trống giữa chính sách và  thực tiễn".

VnEconomy