Cácluật sư của bà Thảo đã khuyên với bà rằngnên làm ngay đơn gởi Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC để đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Bởi lẽ những nội dung của bản án tuyên có nhiều điểm vi phạm đặc biệt nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, về áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan trong việc xét xử, xác định và phân chia khối tài sản chung của vợ chồng, đã gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Thảo, đặc biệt can thiệp thô bạo đến quyền và tư cách cổ đông được quy định trong Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp khi đã tước bỏ các quyền về tài sản của bà Thảo với tư cách là cổ đông trong Tập đoàn Trung Nguyên và các Công ty trực thuộc. Cụ thể là:
Thứ nhất, ngay trước thời điểm mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án ly hôn,bà Thảo đã có gởi đơn đề nghị Chánh án TAND Cấp Cao tại TP.HCM thay đổi thành phần Hội đồng xét xử.
Theo đó, Hội đồng xét xử gồm 3 thẩm phán là: thẩm phán Nguyễn Hữu Ba, thẩm phán Phan Đức Phương, thẩm phán Trương Văn Bình, nhưng lại có tới 2 thẩm phán đã từng nhiều lần xử bà Thảo thua trong các vụ việc tranh chấp trước đây. Đó là thẩm phán Nguyễn Hữu Ba và Phan Đức Phương – hai người đã từng ban hành Quyết định phúc thẩm số 01 ngày 7/1/2019 để giải quyết liên quan đến Quyết định tạm đình chỉ của vụ án này, theo đó không chấp nhận kháng cáo của bà Thảo. Do vậy, để đảm bảo việc xét xử được khách quan, công tâm, đúng pháp luật nên bà Thảo đã có đơn đề nghị gởi Chánh án TAND Cấp Cao tại TP Hồ Chí Minh xin thay đổi 2 thẩm phán nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện Kiểm sát cũng có ý kiến phát biểu đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đơn yêu cầu trên về thẩm quyền giải quyết, căn cứ theo Điều 56 Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: “Trước khi mở phiên tòa, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án do Chánh án Tòa án quyết định”.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử do thẩm phán Nguyễn Hữu Ba – chủ tọa phiên tòa – bất chấp các quy định của pháp luật, khẳng định quyền quyết định thuộc về Hội đồng xét xử chứ không phải Chánh án và khẳng định không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu trên, đồng thời quyết định vẫn tiếp tục xét xử.
Thứ hai là trong quá trình tố tụng có những vi phạm có dấu hiệu của hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án:
* Ngày 22/5/2017, thẩm phán Nguyễn Văn Xuân (chủ tọa phiên tòa sơ thẩm) ban hành quyết định tách hồ sơ vụ án số 42/2017/QĐST-DS (QĐ số 42), với nội dung: Tách yêu cầu chia toàn bộ cổ phần và các quyền tài sản trong Công ty Trung Nguyên International tại Singapore để giải quyết trong một vụ kiện khác.
* Đến ngày 7/7/2017, Chánh án TAND TP Hồ Chí Minh ban hành quyết định số 61/2017/QĐST-DS (QĐ số 61) để hủy QĐ số 42. Sau đó, ngày 14/7/2017, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án là bà Lê Thị Ước, bà Đặng Thị Mai Thùy có đơn khiếu nại, đề nghị Chánh án TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh hủy QĐ số 61 (ông Vũ không khiếu nại QĐ số 61).
* Ngày 28/9/2017, Phó Chánh án Lý Khánh Hồng ban hành quyết định số 01/2017/QĐ-HN-GĐKTIII (QĐ số 01) để chấp nhận khiếu nại của bà Ước, bà Thùy hủy QĐ số 61”.
* Ngày 23/8/2018, Chánh án TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định số 05/2018/QĐ-GQKN-TACC (QĐ số 05), theo đó giữ nguyên QĐ số 61 của Chánh án TAND thành phố Hồ Chí Minh. Phần nơi nhận của QĐ số 05 xác định có gửi đến Viện KSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, TAND TP Hồ Chí Minh; các đương sự...
Tuy nhiên, QĐ số 05 đã bị “ém nhẹm” và bỏ ra ngoài hồ sơ, dẫn đến hậu quả là kết quả xét xử sơ thẩm trái pháp luật vì không tuân theo quyết định có hiệu lực của người có thẩm quyền tố tụng, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của toà án trong xét xử. Cụ thể, tại trang 37 và 38 của bản án sơ thẩm có nội dung “1.9 - Về yêu cầu giải quyết đối với tài sản là cổ phần của vợ chồng trong Công ty TNHH Trung Nguyên International, Chánh án TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đã ban hành QĐ số 01 hủy QĐ số 61 của Chánh án TAND TP Hồ Chí Minh và giữ nguyên QĐ số 42 của TAND TP Hồ Chí Minh và quyết định này là quyết định cuối cùng. Vì vậy vụ án sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác là có căn cứ”. Từ đó, Bản án sơ thẩm số đã căn cứ vào QĐ số 42 và QĐ số 01 để tách yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong Công ty Trung Nguyên International thành một vụ kiện khác là có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Bởi lẽ, trước ngày xét xử và tuyên án 27/3/2019, thì QĐ số 01 đã bị QĐ số 05 ban hành ngày 23/8/2018 thay thế và không còn có hiệu lực pháp luật.
Theo các luật sư của bà Thảo, những việc làm của một số cá nhân trong các cấp Tòa án (TAND Cấp Cao tại TPHCM và TAND TPHCM) nêu trên rõ ràng là hành vi “ém nhẹm” những tài liệu chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án, cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án, bất chấp các quy định của pháp luật để ban hành một Bản án trái pháp luật.
Thứ ba, cả 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều không định giá cổ phần và phần vốn góp. Bản án sơ thẩm đã quyết định về tài sản chung là cổ phần và phần vốn góp. Như vậy, đối tượng tài sản để chia là cổ phần và phần vốn góp. Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi tuyên án, chưa có văn bản tố tụng nào thể hiện các bên thoả thuận về giá cổ phần và phần vốn góp. Do vậy, VIỆC ĐỊNH GIÁ CỔ PHẦN VÀ PHẦN VỐN GÓP LÀ BẮT BUỘC (KHÔNG PHẢI ĐỊNH GIÁ CÔNG TY), chứng thư thẩm định giá là định giá công ty và không phải là tài liệu mà Toà án thu thập theo quyết định định giá đã ban hành. Hồ sơ vụ án, chưa có văn bản tố tụng nào thể hiện thủ tục định giá riêng biệt về cổ phần và phần vốn góp; Chưa có kết luận định giá cổ phần và phần vốn góp là tài sản chung vợ chồng.
Bà Lê Hoàng Diệp Thảo và ông Đặng Lê Nguyên Vũ
Đây là sự thật khách quan, bởi lẽ Toà án chỉ định giá các công ty, mà Công ty là pháp nhân (một chủ thể của quan hệ pháp luật) - không phải là tài sản chung để chia. Đặc biệt nghiêm trọng là tước đoạt toàn bộ số cổ phần và phần vốn góp mà bà Thảo đang đứng tên sở hữu, buộc bà Thảo phải giao cổ phần cho ông Vũ; buộc bà Thảo phải nhận tiền.
Thứ tư, là việc chia tài sản không hiện hữu, không thực hiện thủ tục tố tụng. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên chia số tài sản là tiền, ngoại tệ, vàng mà bà Thảo giao dịch qua tài khoản trong khoảng thời gian từ tháng 03/2012 – 02/2016 có tổng giá trị 1.764 tỷ đồng,trong khi tại thời điểm xét xử sơ thẩm, số dư trên các tài khoản Ngân hàng là 0 đồng, tức là tài sản không còn hiện hữu.
Tại cấp sơ thẩm, Tòa án đã không thực hiện các thủ tục hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ để các bên trình bày ý kiến cũng như xác minh để làm rõ căn cứ nguồn gốc tạo lập... và thực tế Tòa không thể thực hiện, bởi lẽ trước đó ông Vũ đã có đơn rút lại các yêu cầu này trước khi mở phiên toà. Thế nhưng, tại phiên toà sơ thẩm ông Vũ lại yêu cầu trở lại, Hội đồng xét xử không làm rõ mà vẫn chấp nhận theo yêu cầu của ông Vũ và quyết định chia cho ông Vũ được hưởng theo tỷ lệ 60% trong khối tài sản này, trong khi đó bà Thảo đã khai rõ rằng: số tiền, vàng và ngoại tệ không phải là tài sản riêng, cũng không phải là tài sản chung của vợ chồng nhưng không được chấp nhận.
Hơn nữa, Đại diện viện kiểm sát nêu rõ và nhấn mạnh “Không có cơ sở, căn cứ để giải quyết yêu cầu này của bị đơn trong vụ án này” thế nhưng Toà sơ thẩm vẫn bất chấp để quyết định.
Tại phiên toà phúc thẩm, bà Thảo một lần nữa đã khai rõ, số tiền, vàng và ngoại tệ không phải là tài sản riêng, cũng không phải là tài sản chung của vợ chồng. Đồng thời, đã cung cấp cho Tòa các tài liệu chứng cứ để chứng minh nguồn gốc của số tiền, cũng như chứng minh rõ việc Tòa cấp sơ thẩm xác minh số tiền trong các tài khoản này đứng tên của người khác. Vậy mà không được chấp nhận, HĐXX vẫn chấp nhận chia số tiền này như cấp sơ thẩm, tuyên ông Vũ được hưởng theo tỷ lệ 60% trong khối tài sản này. Đây là vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ nămvi phạm trong việc áp dụng trái pháp luật về nội dung trong việc giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điểm b khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 06/01/2016 trong việc xác định công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Nghiêm trọng hơn, dù ông Vũ đã khẳng định “không có tài sản riêng trước hôn nhân, không được tặng cho tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân, số tiền góp vốn trong các công ty là lợi nhuận kinh doanh của các công ty trong quá trình hoạt động giữ lại”, nhưng cả hai cấp Tòa phúc thẩm và sơ thẩm lại chấp nhận ngay lời khai một chiều, không có chứng cứ của những người được ông Vũ ủy quyền tham gia phiên tòa để xác định công sức đóng góp của ông Vũ nhiều hơn, quyết định phân chia khối tài sản chung là cổ phần tại các công ty theo tỷ lệ ông Vũ 60%, bà Thảo 40% là hoàn toàn không chính xác. Đã vi phạm Điều 29, 33 Luật Hôn nhân và gia đình.
Thứ sáu, cả hai cấp Tòa phúc thẩm và sơ thẩm tiếp tục vi phạm các quy định của pháp luật có liên quan khi tuyên buộc bà Thảo phải giao toàn bộ số cổ phần do bà Thảo đứng tên sở hữu và được phân chia theo tỷ lệ 60% - 40% cho ông Vũ.
Việc Bản án sơ thẩm tuyên ông Vũ được quyền sở hữu toàn bộ số cổ phần do bà Thảo đứng tên sở hữu và phần được chia theo tỷ lệ 60% - 40% tại các Công ty trong Tập đoàn Trung nguyên (07 công ty) đã vi phạm nghiêm trọng các quy định được nêu trên, đồng thời đã vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của bà Thảo với tư cách là một cổ đông theo quy định tại các Điều 110, 114, 119, 126 Luật Doanh nghiệp 2015. Đây là hành vi cố ý lợi dụng việc phân chia tài sản chung trong một vụ án ly hôn để tước đoạt quyền của cổ đông, ép buộc cổ đông chuyển nhượng cổ phần trái pháp luật một cách trắng trợn, bằng một Bản án vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật, của một cơ quan công quyền nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Với hàng loạt điểm bất thường nêu trên, nên các luật sư của bà Thảo đã đưa ra lời khuyên với bà rằng là nên làm ngay các thủ tục pháp lý để đề nghịxem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án này, qua đó không những để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn bảo vệ sự công bằng và nghiêm minh của pháp luật, tránh tạo ra những tiều lệ xấu.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử phúc thẩm còn không ghi nhận, xem xét đầy đủ, khách quan những ý kiến, phát biểu quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát về vụ án dẫn đến việc tuyên Bản án sai trái pháp luật, gây bất bình trong dư luận và xã hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nên các Luật sư của bà Thảo cũng rất mong Viện kiểm sát nhân dân sẽ có văn bản đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án này.