20 năm ở Thủ đô
Năm 1969, Mark Rapoport lần đầu đến thăm Việt Nam khi còn là sinh viên y khoa. Ông được Hiệp hội Y khoa Mỹ cử đi làm tình nguyện viên y tế, hầu hết làm việc tại bệnh viện. Sau thời gian đến Việt Nam làm tình nguyện viên, ông Mark trở về New York, Mỹ làm việc. Khoảng năm 2000, vợ chồng ông cảm thấy cần có một sự thay đổi trong cuộc sống.
Đến năm 2002, khi vợ ông, Jane Hughes, có chuyến công tác tại Việt Nam, Mark và các con quyết định đi cùng. Vậy là cả gia đình họ chuyển đến sinh sống tại Hà Nội. Bà Jane làm đại diện cho Hội đồng Dân số, còn ông Mark thì tham gia nghiên cứu về ảnh hưởng của chất độc màu da cam. “Cả gia đình tôi đều phải lòng đất nước Việt Nam và đặc biệt là TP Hà Nội. Sau 20 năm, chúng tôi đã trở thành những người dân Hà Nội thực thụ,” ông Mark Rapoport chia sẻ.
“Tình yêu của tôi với đất nước con người Việt Nam được vợ tôi và 2 người con của tôi dành tặng trong cuốn sách “101 lý do vì sao đáng sống ở Hà Nội". Nếu để tôi nói 1 từ thôi về cuốn sách đó thì tôi sẽ nói con người Việt Nam đã làm tôi yêu mến đất nước này”.
Mark Rapoport
Mối duyên của ông Mark Rapopor với văn hóa dân tộc Việt Nam bắt đầu khi ông đến một ngôi làng dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Ngãi. Lúc đó, người phiên dịch nói với ông rằng người dân trong làng rất nghèo, nếu ai muốn mua các vật dụng trong gia đình thì họ sẵn lòng bán.
Vậy là sự tò mò và lòng trắc ẩn đã thôi thúc Mark mua một chiếc giỏ dùng để đựng cơm và một chiếc gùi 3 ngăn trông giống như một chiếc ba lô. Từ những hiện vật đầu tiên đó, ông Mark Rapopor đã có những bộ sưu tập hiện vật tuyệt vời về văn hóa các dân tộc Việt Nam. “Đôi khi tôi tình cờ bắt gặp một đồ vật sẽ đưa tôi đi theo một hướng sưu tầm hoàn toàn mới, chẳng hạn như những hiện vật tâm linh của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, điển hình là tranh thờ,” ông Mark Rapoport cho biết.
Ông thấy rất thú vị khi hầu hết các bức tranh đều có dây để buộc lên trán của thầy cúng giúp họ có thể kết nối với vị thần linh được vẽ trên tranh. Hầu hết các khuôn mặt được khắc hoạ trên tranh là nam giới. Tuy nhiên, có khoảng 10% tranh về các vị thần nữ (như Cô Chín, Bà Mụ...). Điều này khơi gợi sự quan tâm của ông Mark; vì thế, ông đã bỏ nhiều công sức tìm kiếm những bức tranh nữ thần bổ sung vào bộ sưu tập của mình.
Lan toả văn hoá Việt Nam
Đối với Mark Rapoport, rào cản lớn nhất trong quá trình sưu tập là ngôn ngữ. May mắn là ông có những người bạn yêu di sản giúp phiên dịch và tìm kiếm thông tin. Từ các tài liệu thu thập được, Mark Rapopor đã làm thành các bảng thuyết minh sau mỗi hiện vật để người xem có thể hiểu về nguồn gốc, câu chuyện của hiện vật đó trong đời sống cộng đồng. Đây cũng là cách để ông ghi nhớ, tích lũy kinh nghiệm cho mình.
Nhà sưu tầm Mark Rapoport cho biết, ông đã sưu tầm được hơn 10.000 hiện vật, giờ là lúc để trao tặng số hiện vật này cũng như truyền tải những câu chuyện về hiện vật tới công chúng. Văn hóa Việt Nam vẫn chưa được biết tới và quảng bá rộng rãi ra bên ngoài đất nước Việt Nam một cách tương xứng. Thậm chí, ở những bảo tàng lớn nhất ở New York, chỉ có số ít hiện vật được trưng bày đến từ Việt Nam. Để khắc phục điều này, ông đã trao tặng những hiện vật liên quan tới văn hóa Việt Nam tới các bảo tàng ở Mỹ như Mingei ở San Diego, Bảo tàng Đại học Bates và Đại học Brown.
Không chỉ lan tỏa văn hóa dân tộc Việt Nam ở Mỹ, ông còn trao tặng nhiều hiện vật cho Bảo tàng Dân tộc học, Trường UNIS, Đại học Thái Nguyên và Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Vừa, ông Mark Rapoport trao tặng 500 hiện vật cho Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Tính đến nay, ông đã trao tặng cho đơn vị này là 650 hiện vật với đa dạng các loại hình và chất liệu.
Chia sẻ tại sự kiện, ông Mark Rapoport bày tỏ: “Tôi trao tặng những hiện vật này cho Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam vì tôi yêu quý và rất tin tưởng nơi này. Số hiện vật được trao tặng không chỉ có giá trị văn hóa, mà còn là những kỷ niệm của bản thân tôi với văn hóa Việt Nam. Đây sẽ là nơi gìn giữ và phát huy tốt những giá trị của chúng”.