Truyện Kiều ở Đức: Kỳ cuối Đại thi hào Nguyễn Du trong cảm nhận của dịch giả Franz Faber

Trần Đương| 11/11/2020 16:23

Là người từng có mặt trong các cuộc tọa đàm về Truyện Kiều, tôi không thể nào quên sự trân trọng của mọi người đối với Franz Faber khi ông xuất hiện trước các cử tọa: Mái tóc bạc phơ, gương mặt hồng hào, đôi mắt sáng ánh lên mối thiện cảm, nhà báo, nhà thơ, dịch giả lão thành say sưa nói về Kiều, về những năm tháng ở Việt Nam. Dưới đây là ghi chép qua một lần trò chuyện của Faber với đồng bào mình về Nguyễn Du mà ông vô cùng kính trọng:

“Khi hành khách từ Hà Nội, Thủ đô của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chọn con đường đẹp đẽ như tranh đi về phương Nam, sau mấy tiếng đồng hồ sẽ dừng chân trước những bức tường của Vinh, thành phố trung tâm tỉnh Nghệ An. Cách thành phố cổ xưa này không xa, bên bờ biển, là làng Tiên Điền. Với những rừng chuối và dừa, Tiên Điền cũng không có gì khác biệt với các miền quê quanh đó. Tuy nhiên, cái tên của làng quê đó đã trở nên quen thuộc, vượt xa biên giới của đất nước. Trong một của những ngôi nhà thấp bé tại đây, đã ra đời nhà đại diện vĩ đại nhất của nền văn học cổ điển Việt Nam: Nguyễn Du, thi hào đã sáng tác trường ca dân tộc vĩ đại “Thúy Kiều” (Nàng Kiều).

Quả là ít có những danh nhân trên trái đất này có thể so sánh với ông: Sáng tác thi ca đã trở thành một bộ phận gắn bó với toàn dân tộc, trở thành sản phẩm sinh động của những người đàn ông và đàn bà mà cách đây mấy thập kỷ về cơ bản còn thuộc trong số những người mù chữ. Ngay trong thời kỳ đen tối của chế độ thực dân, hầu như không một túp lều nào giữa đồng bằng sông Mê Kông và những ngọn núi cao Tây Bắc lại không thuộc đôi vần của Truyện Kiều. Với nhịp điệu đầy tính nhạc, dường như công việc vất vả, nặng nề của người nông dân trong khi cày ruộng trồng lúa được giảm nhẹ đi nhiều. Những vần thơ được ngâm lên ở đó, trẻ cũng như già, sau cái nóng nực của một ngày lao động, khi ngồi bên nhau cầm bát nước chè xanh và chiếc điếu cày.

Trong thời kỳ gian khổ nhất của nhân dân Việt Nam - giữa cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân Pháp - nỗi cực nhục và buồn khổ, và cả niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn đã được phản ánh trong những vần thơ của tác phẩm này. Những ngày tháng trong cuộc chiến đấu của toàn dân tộc, không chỉ nhìn vào vũ khí, mà còn nhìn ở những đêm lửa trại bập bùng của mặt trận mênh mông, lắng nghe những lời thơ của Nguyễn Du qua tác phẩm này và họ lại trở nên phấn chấn biết nhường nào. Những vần thơ của nhà thơ cổ điển vĩ đại này tràn đầy tính dân tộc chính là nhờ ở tinh thần của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc thấm đượm trong đó. Mặc dù Nguyễn Du thuộc về một giai đoạn lịch sử đã lùi khá xa, nội dung tác phẩm ông vẫn sống động tinh thần chiến đấu, mà cho đến hôm nay nó vẫn mở đường cho những lý tưởng cao đẹp của nhân loại.

Thời đại mà Nguyễn Du sống (1765-1820) là một trong những thời kỳ đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Trước đó, chưa bao giờ chế độ thực dân vấp phải cơn khủng hoảng như ở giai đoạn này. Vậy là Nguyễn Du trở thành nhân chứng của sự suy vong của triều Trịnh, triều Nguyễn và triều Lê, mà cũng là chiến thắng của cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất Đông Dương, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Ông đã nhìn thấy quân đội của nhân dân chiến thắng bọn xâm lược Xiêm ở phương Nam và bọn bành trướng Mãn Châu ở phương Bắc. Và ông đã nhìn thấy sự phản bội, lòng ghen ghét, nỗi tị hiềm, sự chia cắt, tội ác - và lại nhìn thấy sự vô nhân đạo của những triều đình xa lạ với nhân dân.

Nguyễn Du - đã không phải như phần lớn các thi sĩ thời đại ông được “nhìn thấy ánh sáng của trái đất” trong túp lều của một nông dân - Ông là con một vị quan lại mà gia đình ông đã phục vụ khá lâu: triều đại nhà Lê. Nơi mà ông xuất thân đã hít thở tư tưởng của thế giới Khổng Tử. Nếu như nhà thơ đã đạt được vòng hào quang của sự bất tử chính là vì, mặc dù xuất thân và được giáo dục như vậy - đã tìm con đường đến với nhân dân. Trong sinh hoạt thường ngày với họ - những người sống dưới gánh nặng tinh thần - Nguyễn Du nhận ra sự trống rỗng của cái gọi là trật tự vĩnh cửu mà các triều đình cũng tính đến. Và trái tim ông rộng mở cho những người nông dân không có đất cày, dưới đòn roi của chế độ quan lại chưa hề một lần có thể gặt một vài cụm lúa là của riêng họ. Ông viết cho những người lính phải bỏ mình cho bọn tham lam lợi nhuận của triều đình, cho những người bán hàng rong mà đôi vai hằn những vết sẹo của đòn tre nặng trĩu, cho những người phụ nữ bất hạnh mà nỗi khổ buộc họ phải bán rẻ thân mình.

Nguyễn Du lấy một tác phẩm văn học cổ xưa làm đối tượng cho tác phẩm thi ca của mình, vốn hầu như không ai trong nước biết đến. Đương nhiên, “Nàng Kiều” khác xa một bản dịch đơn thuần ra tiếng Việt. Thiên tài của nhà thơ là với nhân vật Kiều đã sáng tạo một hình tượng nghệ thuật với ý nghĩa nhân đạo sâu xa, mang những đặc điểm đạo đức tốt đẹp tương ứng của nhân dân mình, và không thể đem ra mà so sánh với vị “tiền bối” ở phương Bắc của nó.

Câu chuyện nàng Kiều là câu chuyện của một mối tình.

Ai đã có dịp tìm hiểu châu Á cổ xưa và những truyền thống hàng nghìn năm của nó, sẽ biết rằng, riêng một tác phẩm thi ca mà cảm xúc nhân đạo nhất này trong mọi cảm xúc được đặt vào trung tâm là cả một chương trình chiến đấu: Chống những âm mưu thấp hèn nhất, sự thống trị và quyền lực tàn bạo, chống sự nô lệ hóa người phụ nữ và sự hà hiếp các gia đình và chống lại toàn bộ sự phá hoại thuần phong mỹ tục của thời đại ấy. Thế nhưng, Truyện Kiều cũng chính là câu chuyện của lòng dũng cảm, lòng thủy chung, của niềm tin, niềm hy vọng và cuộc đấu tranh không mệt mỏi của một thế giới tốt đẹp hơn. Đấy không chỉ là tấn kịch của một con người, phải ngờ vực trước sự tấn công tàn bạo của một số phận đắng cay - vẫn luôn luôn tìm ra con đường mới mẻ tới tầm cao của sự trong trẻo và hạnh phúc. Đấy cũng là tấn kịch của một giai cấp, hàng thế kỷ thiếu hẳn sức mạnh để tìm lối thoát khỏi chế độ phong kiến.

Trong bản trường ca của mình, Nguyễn Du vạch trần một thời đại chỉ biết một thứ luật - luật rừng và một cái quyền - quyền lực. Nhà thi hào không nhìn thấy giải pháp, mà cũng không thể nhìn thấy được. Một mặt, nhà thơ cảm thấy niềm tin vào đạo Phật chỉ là một thứ hy vọng giả dối để vượt qua vòng luẩn quẩn ma quỉ. Nhưng, một mặt khác, thời đại mà ông sống còn chưa đủ độ chín để giải phóng hình ảnh một thế giới siêu hình. Phải đợi đến khi học thuyết cách mạng của Marx và Engels mở ra cho thế giới thấy vai trò của giai cấp công nhân với tư cách người sáng tạo xã hội xã hội chủ nghĩa được đưa vào những túp lều tre ở bờ biển Nam Hải.

Thiên tài của Việt Nam ở thế kỷ 19 đã không thể mở cánh cửa cho những con người đau khổ, nhưng cũng không vì thế mà thế hệ sau may mắn hơn lại tỏ lòng kính trọng ông ít hơn. Trái lại: có phải Truyện Kiều ngày nay lại không chỉ rõ hơn để họ thấy rằng nhân dân đã phải sống trong một hoàn cảnh nào ? Con đường đau khổ của người thiếu phụ và gia đình nàng lại không phải là sự kích thích để họ không thể ngồi yên, cho đến ngày ngọn cờ của tự do phất phới bay trên những xóm làng?

Truyện Kiều được bảo tồn như một trong những đài tưởng niệm đáng khâm phục nhất của nghệ thuật thi ca Việt Nam không phải chỉ do đề tài tiến bộ của nó. Hơn ai hết, Nguyễn Du đã kết hợp sự sáng tạo của văn học dân gian Việt Nam với nền văn hóa cổ điển Trung Hoa. Những bức tranh văn học của ông không nhìn thấy có sự tương tự trong thi ca Việt Nam - Sự tươi vui của một cuộc du xuân, những nỗi khủng khiếp của một đêm đầy tang tóc, những cảm xúc của cô thiếu nữ trinh bạch, lòng ham muốn thấp hèn của bọn chủ lầu xanh - không một bức tranh nào mà ngòi bút của thi sĩ không phác họa một cách tài hoa như vậy. Câu chuyện nàng Kiều là một bằng chứng đáng noi theo cho việc ngôn ngữ nhân dân có thể đạt tới sự diễn đạt nghệ thuật hoàn mỹ”.
(0) Bình luận
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Triển lãm nghệ thuật sơn mài chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV
    Chiều ngày 12/12/2025, “Triển lãm nghệ thuật sơn mài hướng tới chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV” đã khai mạc tại 29 Hàng Bài, phường Cửa Nam, Hà Nội. Sự kiện do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức, giới thiệu 44 tác phẩm sơn mài tiêu biểu của nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam.
  • Bạn thi nhân bên Đầm Én - Nha Trang
    Khởi nguồn từ thành Bình Định bên dòng sông Côn, lớn lên trong tình thơ của bốn thi nhân mà người đời gọi là “tứ linh”, với danh vọng thật ấn tượng “Bàn Thành tứ hữu”: Hàn Mặc Tử (long), Chế Lan Viên (phượng), Yến Lan (lân) và Quách Tấn (quy). Họ đã gắn bó với nhau bằng tất cả tấm lòng trong sáng, lãng mạn từ thuở hoa niên cho đến khi bay về trời như cánh mai mùa xuân.
  • Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội 2026: Nhiều không gian sáng tạo mới được khai mở
    Chiều ngày 10/12, tại Cung Thiếu nhi Hà Nội đã diễn ra Lễ công bố Khung hoạt động Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội 2026 và ra mắt Mạng lưới không gian sáng tạo Hà Nội. Sự kiện do UBND Thành phố Hà Nội, Hội Kiến trúc sư Việt Nam chỉ đạo; Sở Văn hóa và Thể thao và Tạp chí Kiến trúc tổ chức, cùng với sự đồng hành của UNESCO, Tập đoàn Sovico cùng nhiều đơn vị.
  • Mùa Giáng Sinh ý nghĩa cho các bệnh nhi qua chuỗi hoạt động “Trao gửi yêu thương”
    Vừa qua, Prudential Việt Nam đã phối hợp cùng Quỹ Bảo trợ Trẻ em Việt Nam trao quà cho các bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi Đồng 1, đây là sự kiện mở đầu cho hoạt động trao tặng 2.600 phần quà với tổng trị giá 800 triệu đồng tại TP.HCM và Hà Nội, mang đến những món quà thiết thực và tinh thần tích cực cho các bệnh nhi trong mùa Giáng Sinh ấm áp, an lành.
  • Phổ cập AI cho toàn dân, nền tảng trong kỷ nguyên số
    Trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo đang trở thành một trong những động lực cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới sáng tạo trên phạm vi toàn cầu, việc đưa AI đến gần hơn với người dân không còn là câu chuyện của tương lai mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết của hiện tại.
Đừng bỏ lỡ
  • Điểm hẹn văn hóa mới bên Hồ Gươm
    Chiều nay (14/12), chương trình "Âm nhạc cuối tuần" tiếp tục được tổ chức tại Nhà Bát Giác - Vườn hoa Lý Thái Tổ. Đây không chỉ là một sân khấu biểu diễn đơn thuần, mà được kỳ vọng là bước đi chiến lược nhằm đưa nghệ thuật chất lượng cao "chạm" vào đời sống đại chúng, góp phần định vị thương hiệu "Thành phố sáng tạo".
  • Lễ Mừng cơm mới của người Si La được công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia
    Người Si La tổ chức Lễ mừng cơm mới khi những hạt thóc đầu mùa chín rộ và đến kỳ thu hoạch. Đây là nghi thức nông nghiệp chứa đựng nhiều nét văn hóa truyền thống được người dân gìn giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ.
  • Khai mạc Liên hoan Ẩm thực và Du lịch làng nghề, phố nghề Hà Nội 2025
    Tối ngày 12/12, tại Không gian Văn hoá sáng tạo Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn), Sở Du lịch Hà Nội tổ chức Lễ khai mạc Liên hoan Ẩm thực và Du lịch làng nghề, phố nghề Hà Nội năm 2025.
  • Chiếu phim chào mừng Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam
    Nhân dịp kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2025), Viện Phim Việt Nam tổ chức chiếu phim, ba tác phẩm được lựa chọn chiếu trong dịp này là "Bản nhạc người tù", "Phía sau cuộc chiến" và "Đứa con và người lính".
  • Tiếp tục đưa dự án “Âm nhạc cuối tuần” thành điểm hẹn văn hóa quen thuộc của người dân Thủ đô
    Vào lúc 15h30 chiều mai (14/12), chương trình "Âm nhạc cuối tuần" sẽ tiếp tục được tổ chức tại Nhà Bát Giác - Vườn hoa Lý Thái Tổ. Đây sẽ là hoạt động thường niên vào dịp cuối tuần tại không gian phố đi bộ Hồ Gươm với nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc.
  • Phát triển sân khấu Việt Nam từ góc nhìn lực lượng sáng tạo trẻ
    Trong bối cảnh sân khấu Việt Nam đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ để thích ứng với đời sống nghệ thuật đương đại, lực lượng trẻ đóng vai trò quan trọng, góp phần định hình diện mạo sân khấu hôm nay và tương lai. Tại tọa đàm “Lực lượng trẻ trong sự phát triển sân khấu hiện nay” do Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức sáng 10/12/2025, các ý kiến tham luận không chỉ làm sáng tỏ thực trạng “khủng hoảng” thiếu nghệ sĩ trẻ mà còn gợi mở nhiều giải pháp thiết thực nhằm phát huy công tác đào tạo và sử dụng nguồn lực tài năng trẻ sân khấu trong thời kỳ mới.
  • Đô thị Huế trong dòng chảy lịch sử
    Các nhà khoa học, chuyên gia thảo luận và chia sẻ về “Đô thị Huế trong dòng chảy lịch sử” tại hội thảo khoa học do Hội Khoa học Lịch sử TP Huế tổ chức.
  • UNESCO ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh mục di sản cần bảo vệ khẩn cấp
    Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ ở khu phố Đông Khê, phường Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ra đời cách đây khoảng 500 năm. Cộng đồng thực hành nghề đã tạo ra những bức tranh có đặc trưng riêng về chủ đề, kỹ thuật in, màu sắc và đồ họa bằng kỹ thuật in khắc gỗ.
  • Dự án xây dựng cầu Ngọc Hồi: Mở biên độ phát triển kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội
    Hiện thực hóa mục tiêu phát triển Thủ đô “Văn hiến – Văn minh – Hiện đại” trong kỷ nguyên mới, Thành phố Hà Nội khẳng định việc đầu tư xây dựng cầu Ngọc Hồi và đường dẫn hai đầu cầu theo quy hoạch sẽ tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội khu vực phía Nam của Thủ đô, cũng như các tỉnh phía Nam và Đông – Nam của Vùng Thủ đô như Hưng Yên, Ninh Bình và Bắc Ninh.
  • "Trần Nhân Tông" - Vở diễn kết hợp cải lương và nghệ thuật xiếc
    Tối ngày 8/12, tại Hà Nội, Nhà hát Sân khấu Truyền thống quốc gia Việt Nam phối hợp cùng Liên đoàn Xiếc Việt Nam đã tổ chức buổi tổng duyệt vở diễn "Trần Nhân Tông" - một dự án nghệ thuật quy mô lớn, đầy tính thử nghiệm.
Truyện Kiều ở Đức: Kỳ cuối Đại thi hào Nguyễn Du trong cảm nhận của dịch giả Franz Faber
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO