Được Quốc hội khóa XIII thông qua từ kỳ họp thứ 11, ngày 4/5/2016 song đến ngày 1/6/2017 Luật Trẻ em (sửa đổi) mới chính thức có hiệu lực. Luật đã có những quy định cụ thể về các quyền và bổn phận của trẻ em; sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em; các biện pháp bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế cho trẻ em; trách nhiệm thực hiện quyền trẻ em; các hành vi vi phạm quyền trẻ em bị nghiêm cấm… để tôn trọng và bảo vệ trẻ em tốt hơn.
Nhiều điểm mới
Luật Trẻ em (sửa đổi) năm 2016 gồm 7 chương với 106 điều. Như vậy, so với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 1991) gồm 5 chương, 26 điều; sau đó là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 2004) vẫn gồm 5 chương và được bổ sung thành 60 điều thì kết cấu của Luật Trẻ em được tăng thêm 2 chương và 46 điều. Tên gọi của luật cũng đã được đổi từ Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thành Luật Trẻ em. Tên gọi mới này ngắn gọn song có tính khái quát cao để phản ánh đầy đủ hơn nội dung và phạm vi của luật.
Việc quy định “trẻ em là người dưới 16 tuổi” của luật nghĩa là không giới hạn trẻ em là công dân Việt Nam, mà đối tượng áp dụng của luật còn bao gồm cả trẻ em là người nước ngoài cư trú tại việt Nam. Đồng thời, Luật Trẻ em có 11 khái niệm được giải thích rõ, trong đó có các khái niệm về phát triển toàn diện của trẻ em, chăm sóc thay thế, xâm hại trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em, giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em...
Trẻ em cần được bảo vệ và yêu thương
Hơn nữa, trong 14 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được luật quy định thì có nhiều nhóm mới được bổ sung như: trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; trẻ em bị bóc lột; trẻ em bị mua bán; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm sóc.
Bên cạnh đó, Luật Trẻ em (sửa đổi) năm 2016 còn quy định cụ thể các nội dung về các cấp độ bảo vệ trẻ em (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp) và trách nhiệm thực hiện; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Các biện pháp phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp được quy định cụ thể, cùng với trách nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc bảo vệ trẻ em. Luật quy định các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em ở cả ba cấp độ, không chỉ dừng lại ở việc can thiệp đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Tại điều 53 của Luật Trẻ em quy định cụ thể trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã.
Quy định về chăm sóc thay thế nhằm đảm bảo trẻ em được sống trong môi trường gia đình và được chăm sóc thay thế khi bị mất môi trường gia đình hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Tại mục 4 Chương IV của Luật Trẻ em quy định các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.
Việc thể chế hóa quy định tại khoản 1 Điều 37 Hiến pháp năm 2013 “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em” được luật thể hiện ở chương V. Nội dung mới này của luật quy định nội dung, phạm vi, hình thức trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em và biện pháp bảo đảm trong gia đình, nhà trường, cơ sở giáo dục khác và trong cộng đồng.
Để cơ chế giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em được khả thi và hiệu quả, Luật Trẻ em quy định rõ nhiệm vụ của tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em là Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Cần hiểu để làm đúng
Chưa khi nào những thông tin về trẻ em đầy ăm ắp trên internet như hiện nay khi nhà nhà, người người ăn, ngủ, chơi… cùng mạng xã hội. Không kể những tổ chức xã hội, đơn vị cố tình mượn hình ảnh của trẻ để phục vụ lợi ích kinh doanh thì cũng có thể những hoạt động này xuất phát từ nhu cầu được cho là vô tư của người lớn, muốn khoe con ngoan, con khỏe của mình. Thế nhưng, mấy ai biết rằng đã vô tình xâm phạm bí mật đời sống riêng tư của trẻ em, nhiều khi dẫn đến những hệ lụy đáng buồn.
Trước những thực tế mới đặt ra, Luật Trẻ em (sửa đổi) năm 2016 đã quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm bao gồm: cấm tước đoạt quyền sống của trẻ em; xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em; bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình; công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em; cấm kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em. Trong đó, đối với riêng hành vi công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em còn được điều 33 của Nghị định số 56/2017/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 1/7/2017, giải thích rõ thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em. Như vậy, pháp luật đã có khung pháp lý chặt chẽ để bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em. Nếu nhiều cha mẹ vẫn vô tư thực hiện trên mạng xã hội mà chưa được sự đồng ý của trẻ từ đủ 7 tuổi được xem là vi phạm pháp luật.