Giải văn xuôi của Hội Nhà văn Hà Nội ít lâu nay “xìu xìu”, năm có năm không. Vẫn biết được mất là ở mùa màng, tức chất lượng tác phẩm - là chính, nhưng tâm trạng của các thành viên Hội đồng Văn xuôi, sau khi tìm đọc chán chê, luận bàn mỏi miệng mà không chọn được “trạng” khó phấn khởi được. Cảm giác như mình chưa chăm chỉ, hoặc khó tính, thậm chí không khách quan. Lại có lúc trách lây sang tiêu chí giải, sao chỉ chọn “mỗi”, không “động viên phong trào” một tý…
Nhà văn Nguyễn Việt Hà.Ảnh: Nguyễn Đình Toán
Mùa 2018 – 2019 này thở phào được, với tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà. Hôm trao giải còn có ông phản ứng tôi không dự thi mà đưa sách của tôi vào xét là “bêu riếu”. Cũng mừng, có người “dỗi” là giải hội ta được để ý, như một thứ gia vị cho nó đủ hơn.
“Thị dân tiểu thuyết” (NXB Trẻ, 2019) là tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Việt Hà sau “Cơ hội của Chúa”, “Khải huyền muộn”, “Ba ngôi của người”. Hình như ông nhà văn này hễ viết dài thì “mặc định” ra cho mình một cái không gian địa lý, về Hà Nội, mà chỉ trong một con phố. Phố ấy giờ không phải chỉ có nhà thờ, mà còn cả đền, chùa, ngõ ngách cùng với những suy nghĩ, triết lý của mỗi tôn giáo. Nối chúng lại với nhau, tìm cách hòa đồng có vẻ là ý định của nhà văn. Nhưng được trình bày trong quãng thời gian cách nay hơn kém trăm năm, sách lại có màu sử thi. Vậy là ôm chứa lớn, phức tạp rồi. Nhưng lại không tồn tại khái niệm “câu chuyện” để mà kể ra, và chèn vào nhiều “mảnh mẩu” được hoặc không được đặt tên. Mà cái ông này rất là không thèm kể, mỗi chương, đoạn sau vài chữ cho biết nhân vật là “quăng” ngay cái chủ quan của mình vào, qua ý tứ, nhất là giọng điệu. Nó làm người ta vừa mệt khi theo dõi, lại thú vị trong trường ngôn ngữ, những kiến thức, cách nhìn, thái độ rất khác biệt.
“Thị dân tiểu thuyết” (NXB Trẻ, 2019) được trao Giải văn xuôi của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2019.
Nhiều đoạn, nhiều trang tôi không hiểu được và cũng không cố cày như con trâu để hiểu. Rất may là thấy cuốn hút, có lẽ do cách viết của Việt Hà nương theo quan niệm (?) “tiểu thuyết là Ngôi Lời kể lể nhỏ” chăng? Nhà văn như là ghét những dấu chấm hỏi, chấm than, hai chấm, xuống dòng có gạch nhưng lại trọng thị dấu chấm hết, thỉnh thoảng “đảo phách” đặt tính từ trước danh từ hay trạng từ trước động từ. Một nhân vật của anh muốn tuyệt đối hóa chủ quan mình, chẳng cần viết cho “đám đông vô minh”, vì vậy kể, tả không đóng vai trò lớn mà chuyển sang “kể lể nhỏ” chăng? Chừng như để cho ta đỡ mệt mà đọc tiếp, giữa những uyên bác cao siêu, tác giả chèn vào những nhả nhớt bông phèng hoặc chi tiết thời sự, phả vào những “phép” độc. Một tiết tấu văn không dễ theo dõi, vừa triết lý, trầm ngâm, cổ kính thoắt đã bặm trợn hay châm chọc, hình như có hơi hướng những tạp văn thành danh Nguyễn Việt Hà. Dồi dào chữ đắt, anh có nhiều chọn lựa để thể hiện một tình huống, cho ra những sắc thái khác nhau.
Thị thành đông đảo và lắm giai tầng thật. Nhưng thị dân được “tính” vào đây ít người nghèo, chẳng có nông dân và không đậm màu cần lao. Đấy là những Nho gia cuối mùa, thông phán, người Tây học, nhà văn thiếu tự tin (?), tay chơi suy đồi, người chung chiêng đức tin để phải chọn theo Phật, Thánh hay núp dưới bóng Chúa... Họ có nỗi khổ tâm, dằn vặt của kẻ ăn ngon mặc đẹp, chứa ký ức mất mát hoặc mớ chữ trong đầu chứ không phải loại chỉ cần no ấm là đủ. Và ngay mỗi con người ấy cũng không thể xác định đơn sắc là tích hay tiêu cực.
Cái mạch quyến rũ tôi nhất là phố đầu thế kỷ XX, sử coi là giai đoạn “cận đại”. Xung quanh “ấm” Bình (nhân vật hư cấu?) có những Lương Văn Can, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Lượn lờ tâm trạng xã hội vừa muốn đuổi Tây đi vừa bị nền văn minh của nó đè ép. Yêu nước, ghét thực dân nhưng không hẳn “chân Nho”, “ấm” Bình hoài nghi sự thành công của vụ Hà Thành đầu độc nhưng vẫn tham gia, thậm chí viết thư từ vợ như một hành động tuyệt mệnh. Giãi bày kỹ tâm lý nhân vật chứ không mô tả kết cục bi thảm của cuộc nổi dậy, chắc tác giả ưa thích cái quá trình, nguyên nhân, hậu quả của một vận động hơn cao trào, sự biến. Đoạn “sử thi” này cũng he hé cuộc chọn lựa để được độc lập của các cụ ta: bạo lực hay dân trí đi trước; đề tài đang được bàn luận rôm rả.
Sang thời “hiện đại”, mọi thứ như là hiện ra theo kiểu “mờ chồng”, vì nhân vật cứ lúc “ông” lúc “thằng”, từng trải quá để mỏi mệt, buông bỏ nhưng bản năng ao ước, ham sống vẫn còn. Cải tạo tư sản, bổ sung thành phần..., phố lắm thăng trầm quá nên đức tin con người cũng mờ mờ ảo ảo, vị hoài nghi, suy đồi “di truyền” từ vai trên Lâm, Tĩnh sang thanh niên Tùng. Mạch văn này có chỗ “rẽ ngang” rất đắt (cỗ Hà Nội), lại có chỗ lan man; lôi cả thời sự vào liệu có đáng... Nhưng đây là “kể lể nhỏ” kia mà. Trong cuộc chơi rất riêng này, Nguyễn Việt Hà tha hồ tìm tòi, đi xa về gần tung tẩy rồi vòng vèo trở lại mạch chính. Rất lắm công phu và cũng thật tự do.
Làng văn giờ lắm ảnh hưởng, nhiều người muốn cách tân, nhưng thành công lại gian nan thay. Không phải cứ lý trí mà thắng, khó nhất là để mạch văn mới chảy ra thật tự nhiên. Đối với tôi, cuốn này của anh lý thú nhiều hơn rối rắm. Còn người đọc đón nhận nó thế nào, sẽ ngao ngán khó tiêu hóa hay hào hứng cười sằng sặc hoặc cả hai, lại là câu chuyện khác.
“Thị dân tiểu thuyết” khép lại một mùa màng “có sự kiện” làm dấu mốc, tạo cảm giác đỡ im lìm. Nhưng cũng gợi lại cảm giác không mấy dễ chịu: tại sao nhiều tác giả viết về Hà Nội lâu nay không gửi tác phẩm đến các nhà xuất bản ở Hà Nội?