Theo ông Đỗ Thức - Tổng cục trưởng Tổng Cục Thống kê, tính chung 6 tháng đầu năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 3,9% so với 6 tháng đầu năm 2008, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 1,2%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,48%; khu vực dịch vụ tăng 5,5%.
Tiếp tục đà tăng trưởng dương
Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng tăng 4,8% so với cùng kử³ năm 2008, trong đó công nghiệp khai thác tăng 8,6%, chủ yếu nhử sản lượng dầu thô khai thác tăng mạnh; công nghiệp chế biến tăng 4,4%; công nghiệp điện, ga và nước tăng 8,1%.
Tháng 6, sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng cao hơn tháng trước. Như vậy giá trị sản xuất công nghiệp cả nước tăng liên tục trong 5 tháng qua (tháng 2 tăng 8,4%; tháng 3 tăng 2,3%; tháng 4 tăng 5,4%; tháng 5 tăng 6,8%, tháng 6 tăng 8,2%).
Tốc độ tăng của ngà nh công nghiệp 6 tháng đầu năm đạt mức 4,5% so với cùng kử³ năm trước. Trong đó, công nghiệp khai thác tăng 10,4%; công nghiệp chế biến đã phục hồi và có tăng trưởng dương đạt mức 1,5%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước tăng 6,7%. Một số địa phương có tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao 6 tháng đầu năm là Quảng Ninh 11,5%, Bà Rịa-Vũng Tà u 10,6%...
Theo ông Nguyễn Bích Lâm “ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng tháng sau cao hơn tháng trước. Đây là tín hiệu tốt cho thấy khu vực công nghiệp nước ta đang dần hồi phục, đi và o phát triển ổn định để vượt qua thời kử³ khó khăn.
Sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp vượt qua nhiửu khó khăn đạt được kết quả tốt, ước đạt 96,6 nghìn tỷ đồng trong 6 tháng, tăng 2,5% so với cùng kử³.
Do diện tích và năng suất các vùng đửu tăng mạnh nên sản lượng lúa đông xuân đạt trên 18,6 triệu tấn, tăng 31,2 vạn tấn so với cùng kử³ 2008.
Sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm ước đạt 2,278 triệu tấn, tăng 5%. Sản lượng thuỷ sản tăng chủ yếu là đánh bắt, trên 1 triệu tấn “ ông Đỗ Thức cho biết.
Tổng mức bán lẻ hà ng hóa và doanh thu dịch vụ 6 tháng ước đạt 547 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kử³.
Xuất - nhập khẩu đửu giảm
Theo Tổng Cục thống kê, tính chung 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2009 ước đạt 25,1 tỷ USD, giảm 18,6% so với cùng kử³. Kim ngạch xuất khẩu hà ng hoá 6 tháng giảm chủ yếu do giá trên thị trường thế giới giảm sút và đứng ở mức thấp.
Do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế thế giới nên kim ngạch xuất khẩu hà ng hoá 6 tháng đầu 2009 sang các thị trường chủ yếu đửu giảm so với cùng kử³ năm trước, trong đó thị trường Nhật Bản giảm mạnh ở mức 40%, EU giảm 16%, Hà n Quốc giảm 11%, Trung Quốc giảm 9%...
Chỉ tính 8 mặt hà ng xuất khẩu chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, hạt điửu, cao su, chè, hạt tiêu) vử giá bình quân 6 tháng đầu năm 2008 thì kim ngạch đã tăng thêm 5 tỷ USD, và như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước 6 tháng đầu năm tăng 6,3%.
Mặc dù vậy, 6 tháng đầu năm các mặt hà ng xuất khẩu nông sản như sắn, gạo, hạt tiêu, hà ng thủy sản liên tiếp có mức tăng trưởng dương và tăng cao so với cùng kử³.
Vử nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu tháng 6 ước đạt 29,7 tỷ USD, giảm 34,21% so với cùng kử³ năm 2008, trong đó máy móc, thiết bị giảm 22,7%; hà ng tiêu dùng tăng 2,6%. Kim ngạch hà ng hoá nhập khẩu giảm do một số mặt hà ng nhập khẩu giảm vử lượng, nhưng chủ yếu là do giá trên thị trường thế giới giảm (giá xăng dầu giảm 52%, giá phân bón giảm 33%, giá sắt thép giảm 31%; giá chất dẻo giảm 32%; giá sợi dệt giảm 23%).
Cơ cấu các mặt hà ng nhập khẩu đã có sự thay đổi: máy móc, thiết bị chiếm 29,4% tổng kim ngạch hà ng hóa nhập khẩu 6 tháng (cùng kử³ năm 2008 là 25,2%); hà ng tiêu dùng chiếm 9,6% (cùng kử³ năm trước là 6,2%). Kim ngạch hà ng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2009 từ khu vực ASEAN ước tính đạt 6 tỷ USD, già m 34% so với cùng kử³ năm 2008; nhập khẩu từ Trung Quốc ước tính đạt 7 tỷ USD, giảm 27%; Hà n Quốc ước tính đạt 3 tỷ USD, giảm 32%; Nhật Bản ước tính đạt 3 tỷ USD, giảm 37%.
Nhập siêu hà ng hóa tháng 6/2009 ước tính 1,2 tỷ USD, thấp hơn mức nhập siêu 1,25 tỷ USD của tháng trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2009 nhập siêu 2,1 tỷ USD, bằng 14,7% cùng kử³ năm trước. Nếu loại trừ và ng tái xuất của quý I thì nhập siêu hà ng hóa 6 tháng là 4,6 tỷ USD, trong đó quý I nhập siêu 1 tỷ nhất của Việt Nam với mức nhập siêu trong 6 tháng ước tính 5 tỷ USD; Mử¹ và EU tiếp tục là các thị trường xuất siêu ở mức 3,9 tỷ USD và 2,1 tỷ USD.
Tiếp tục kiểm soát giá cả
So với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 chỉ tăng 0,32%; tháng 2 tăng 1,17%; tháng 3 giảm 0,17%; tháng 4 tăng 0,35%; tháng 5 tăng 0,44% và tháng 6/2009 tăng 0,55%.
Giá tiêu dùng tháng 6/2009 so với tháng 12 năm 2008 tăng 2,68% do giá của hầu hết các nhóm hà ng hóa và dịch vụ tiêu dùng đửu tăng, trong đó hà ng ăn và dịch ăn uống tăng 2,5% (lương thực tăng 0,59%; thực phẩm tăng 2,2%; ăn uống ngoà i gia đình tăng 5,65%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,65%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,51%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình; may mặc, mũ nón và giầy dép tăng trên 3%; các nhóm khác tăng từ 0,4 “ 1,8%; riêng nhóm phương tiện đi lại, bưu điện giảm 0,57% và nhóm đồ dùng, dịch vụ khác tăng 7,6%.
Nếu so với giá bình quân 6 tháng đầu năm 2008 thì chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm nay đã tăng 10,27%, trong đó hà ng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 14,81%; đồ uống và thuốc lá tăng 11,21%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 10,88%; may mặc, già y dép và mũ nón tăng 10,83%; dược phẩm và y tế tăng 8,32%; văn hóa, thể thao và giải trí tăng 8,02%; giáo dục tăng 6,12%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,91%. Riêng nhóm phương tiện đi lại và bưu điện giảm 2,8%.
Theo ông Đỗ Thức, để chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao trong những tháng cuối năm, đi đôi với việc thực hiện các chính sách, biện pháp tà i chính - tiửn tệ linh hoạt, cần tăng cường công tác quản lý giá, nhất là các mặt hà ng chiến lược, giá cây, con giống, giá thức ăn gia súc để tạo sự ổn định sản xuất kinh doanh cho các cơ sở sản xuất và các hộ nông dân. Tập trung chỉ đạo quyết liệt để các cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các tập đoà n kinh tế, các tổng công ty lớn và các địa phương thực hiện nghiêm túc các chỉ tiêu kế hoạch năm 2009 đã cam kết.