Mới chưa đầy nửa năm sau ngà y Chính phủ hạ lệnh thắt chặt tín dụng, ngay cả các doanh nghiệp nhà già u như Tập đoà n Sông Đà , Tổng công ty Xi măng Việt Nam, Tập đoà n Phát triển nhà và Đô thị... xưa nay vẫn vỗ ngực chẳng lo thiếu vốn giử cũng đã phải lên tiếng cầu cứu.
Cầm hơi
Thay vì thông lệ báo cáo thà nh tích đã quy hoạch được bao nhiêu khu đô thị, triển khai được bao nhiêu dự án, xây dựng được bao nhiêu mét vuông nhà ... như trước đây, cuộc giao ban hồi đầu tuần trước giữa các doanh nghiệp trong ngà nh với lãnh đạo Bộ Xây dựng đã trở thà nh diễn đà n để các doanh nghiệp than thở vử chuyện thiếu tiửn. Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Xi măng Việt Nam (VICEM) Lê Văn Chung mở mà n với giọng điệu thê thiết: Đi vay lúc nà y cũng chỉ là để nấu cháo ăn qua bữa, giống như một người sắp chết buộc phải vay thôi.
à”ng Chung nói thẳng, lợi nhuận chỉ có và i phần trăm thì lấy đâu ra tiửn để trả lãi trên 20%/năm. Thắt chặt tín dụng mà dẫn đến sản xuất đình đốn thì không hợp lý. Nếu siết đến mức các đơn vị sản xuất, kinh doanh đổ bể thì ngân hà ng cũng không thể đòi được nợ. Tổng công ty Xi măng là một đơn vị sản xuất thực sự, quanh năm đà o đá, xúc đất nhưng lợi nhuận chỉ khoảng 2-3%.
Cũng viện dẫn những con số của doanh nghiệp mình, ông Dương Khánh Toà n, Tổng giám đốc Tập đoà n Sông Đà cho biết, nhiửu chỉ tiêu sản xuất kinh doanh 6 tháng đầu năm nay thấp hơn hẳn so với kế hoạch, bởi chủ đầu tư các công trình mà tập đoà n nà y đang thi công cũng kẹt tiửn thanh toán, dẫn tới công nợ của Tập đoà n đang ngà y một phình ra. Vốn chủ sở hữu của Tập đoà n là 15.600 tỷ đồng, vốn Nhà nước chỉ có 4.600 tỷ đồng, mà hiện nay Sông Đà đã đầu tư 8.000 tỷ đồng.
Nhiửu dự án bất động sản đang đứng bên bử đình trệ do không còn vốn để tiếp tục thi công. |
Trong khi đó dở dang công nợ quá lớn, đã lên tới 5.500 tỷ đồng. Riêng tại dự án Thủy điện Lai Châu - công trình trọng điểm của Nhà nước, tổng giá trị thi công của các đơn vị, nhà thầu trong Tập đoà n đã lên tới 1.300 tỷ, nhưng vốn (cả ứng và thanh toán của chủ đầu tư) thì đến nay mới được cả thảy 264 tỷ đồng. à”ng Toà n than: Hai tháng vừa rồi, các đơn vị thi công vẫn chưa được thanh toán một đồng nà o. Chúng tôi phải huy động mọi nơi để trả lương cho công nhân. Khả năng chịu đựng của doanh nghiệp có hạn, tình hình hiện rất căng thẳng.
Chia sẻ với người đồng nhiệm ở Tập đoà n Sông Đà , Tổng giám đốc Tập đoà n Phát triển nhà và Đô thị (HUD) Nguyễn Đăng Nam cho rằng, chưa bao giử các doanh nghiệp kinh doanh, đầu tư bất động sản lại khó khăn như thời điểm nà y. Các doanh nghiệp hiện đang chịu tác động kép, bởi ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế toà n cầu còn chưa chấm dứt, thì lại phải đối mặt với lạm phát tăng cao, chi phí xây dựng biến động, việc huy động vốn và o sản xuất kinh doanh gặp nhiửu khó khăn trong bối cảnh thắt chặt tiửn tệ.
à”ng Nam nói: Chỉ sau một thời gian ngân hà ng siết chặt tín dụng, áp dụng lãi suất ở mức cao thì gần như ngay lập tức chi phí đầu và o của các doanh nghiệp đã bị ảnh hưởng. Kéo theo đó là tình trạng suy giảm, đóng băng của thị trường bất động sản khiến nguồn vốn huy động từ dân chúng cà ng khó khăn.
Cứ thắt là ... xì
Nhìn lại những gì đã diễn ra, người ta mới cà ng thấy thấm thía bình luận thị trường bất động sản Việt Nam, hay nói cách khác là các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam, hiện nay lệ thuộc quá sâu và o hệ thống ngân hà ng. Không có tín dụng từ ngân hà ng, nhiửu doanh nghiệp chắc chắn không thể trụ được lâu. Gần đây nhất, năm 2010, thị trường cũng đã có giai đoạn ngắn bị đình trệ vì thắt chặt tín dụng.
Cụ thể, tại thời điểm 31/7/2010, dư nợ cho vay xây dựng khu đô thị mới tăng trưởng âm 2,35% so với mức tăng trưởng 10,2% của cả năm 2009. Tương tự, dư nợ cho vay xây dựng, sửa chữa, mua nhà để ở chỉ tăng 5,47% so với mức 27,2% của cả năm 2009. Điửu nà y cho thấy, nếu các yếu tố kinh tế vĩ mô không ổn định, lạm phát luôn đứng trước nguy cơ vượt ngườ¡ng cho phép thì khó có thể tạo dựng được một thị trường bất động sản phát triển bửn vững.
Để tháo gỡ khó khăn hiện nay, theo các chuyên gia bất động sản, một mặt, phải khơi thông nhiửu kênh vốn khác cho bất động sản như vốn FDI, nguồn tiửn nhà n rỗi trong dân... Mặt khác, vử lâu dà i, cần thà nh lập Quử¹ tiết kiệm nhà ở để hỗ trợ cho người lao động có điửu kiện mua nhà , góp phần kích cầu trên thị trường.
Đồng thời, phải nghiên cứu thí điểm thà nh lập Cơ quan tái tà i trợ thế chấp và mô hình Quử¹ đầu tư tín thác bất động sản để tạo thêm nguồn cung cấp vốn ngoà i các tổ chức tín dụng cho thị trường. Nhận định rằng giai đoạn trước mắt thị trường vẫn tiếp tục phụ thuộc nhiửu và o nguồn vốn tín dụng ngân hà ng, nhiửu chuyên gia cho rằng, chính sách tà i chính, tiửn tệ cần rất linh hoạt để vừa đảm bảo không tạo ra bong bóng trên thị trường, nhưng cũng không thắt chặt đột ngột gây đổ vỡ thị trường trên diện rộng.
Trước mắt, các doanh nghiệp như HUD, VICEM tha thiết kiến nghị với Chính phủ xem xét, đánh giá lại và phân định rõ các lĩnh vực trong vòng kim cô phi sản xuất, để từ đó có những chính sách tín dụng phù hợp, tạo điửu kiện để các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hà ng. à”ng Nguyễn Đăng Nam đử xuất, Bộ Xây dựng cần tiếp tục là m việc với Ngân hà ng Nhà nước để xem xét đưa ra các tiêu chí, điửu kiện cho vay đối với các dự án bất động sản đang triển khai dở dang, các dự án xây nhà cho người thu nhập thấp... cũng như quan tâm đến việc cho vay mua nhà đối với các đối tượng khó khăn, đối tượng chính sách trên cả nước.
Tập đoà n HUD cũng đử nghị xem xét xây dựng cơ chế cho phép thế chấp dự án hình thà nh trong tương lai để có cơ sở vay vốn. Hà ng loạt doanh nghiệp khác kiến nghị Chính phủ chỉ đạo giảm lãi suất cho vay lẫn huy động để ngăn chặn nguy cơ thua lỗ do chi phí tà i chính quá lớn... Phải nói thêm rằng, hầu hết những đử xuất trên của các doanh nghiệp đã được Bộ Xây dựng gửi tới Ngân hà ng Nhà nước hồi cuối tháng 6 vừa qua.
Tuy vậy, gần 1 tháng trôi qua, Ngân hà ng Nhà nước vẫn chưa có câu trả lời. Thay và o đó, một số chuyên gia tà i chính - ngân hà ng đã lên tiếng cho rằng, bất động sản thực ra chưa tới mức phải giải cứu và không nên bơm thêm vốn ra để cứu các con nợ. Không rõ quá trình thăm dò dư luận còn kéo dà i tới bao giử trước khi một quyết định chính thức được Ngân hà ng Nhà nước ban hà nh, gỡ khó cho doanh nghiệp?