“Chuyện lính Tây Nam” - Một ký ức lương thiện

Bùi Việt Thắng| 31/05/2018 08:50

Tác giả Trung Sỹ (tên thật Xuân Tùng) sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Rời quân ngũ đã ba mươi lăm năm nhưng ký ức về những tháng năm tham gia cuộc chiến đấu ở chiến trường Campuchia (1978 - 1983) mãi mãi là ký ức lương thiện. Tác phẩm “Chuyện lính Tây Nam” của ông vừa ra mắt đã nhận được sự chia sẻ rộng rãi của bạn đọc.

 Không hề ngẫu nhiên khi gần đây loại hình văn học “phi hư cấu” (non-fiction), còn gọi là “văn học tư liệu”, lại xuất hiện dày và có hấp lực với độc giả như “Mùa chinh chiến ấy” của Đoàn Tuấn, “Lính Hà” của Nguyễn Ngọc Tiến, “Chuyện lính Tây Nam” của Trung Sỹ. Cả ba tác phẩm này không hẹn mà gặp đều viết về đời sống chiến đấu của bộ đội Việt Nam trên chiến trường Campuchia thời kỳ khốc liệt những năm 1978 - 1983 đáng nhớ trong lịch sử. Cả ba tác phẩm đều là những hồi ức chiến tranh với ưu trội là tinh thần tôn trọng sự thật tuyệt đối, những gì được hồi cố và kể lại đều dựa trên nguyên tắc để cho sự thật lên tiếng. Cả ba tác phẩm đều toát lên vẻ đẹp giản dị, đầy sức thuyết phục của sự thật. Đó là sự bù đắp nguyện vọng của độc giả ngày nay trước tình trạng văn học hư cấu tỏ ra thiếu sức mạnh nghệ thuật trầm trọng, đã tạo ra những bức tranh đời sống nhợt nhạt, không màu sắc, âm thanh, mùi vị, đường nét thực. Văn học phi hư cấu có cái sức mạnh tiềm tàng khi nó chuyển tải tới độc giả một cảm xúc tươi nguyên trước một hiện thực ròng ròng sự sống. 

“Chuyện lính Tây Nam” - Một ký ức lương thiện
Tác giả “Chuyện lính Tây Nam”, nguyên trung sĩ thông tin, phục vụ tại Tiểu đoàn bộ binh 4, Trung đoàn 2, Sư đoàn 9, Quân đoàn 4 trong thời gian chiến tranh biên giới Tây Nam 1978 - 1983. Trong “Lời tựa” ông viết: “Tôi là một người lính bộ binh, tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, đánh đổ quân diệt chủng Khme Đỏ từ năm 1978 đến 1983 (...). Bốn năm đầy hy sinh gian khổ, với rất nhiều bạn bè đồng đội tôi đã không trở về (...). Chính họ đã nhắc tôi kể lại câu chuyện Tây Nam này (...). Tên tuổi các anh em tôi vẫn giữ nguyên không đổi, như là họ vẫn sống trên đời”. Như vậy có thể nói, “Chuyện lính Tây Nam” (NXB Thanh niên, 2018) là chuyện về những người chết và những người còn sống trong và sau chiến tranh. Hồi ức về những ngày chinh chiến là ký ức lương thiện của một người lính.

Tác giả đã kể những câu chuyện gì về lính Tây Nam? Trước khi  đọc “Chuyện lính Tây Nam”, trong tủ sách gia đình tôi đã có “Chuyện của lính Tây Nam” (NXB Hội Nhà văn, 2010) của Thủy Hướng Dương (sinh 1972). Tất nhiên chị chỉ có thể nghe kể và ghi lại những câu chuyện của lính Tây Nam bằng ngôn từ của riêng mình. So sánh hai tác phẩm thấy rất khác nhau về nội dung và cách thể hiện. Thật thú vị khi mỗi tác phẩm đều có cái duyên văn của riêng mình. “Chuyện lính Tây Nam” của Trung Sỹ kể 124 câu chuyện ngắn dài khác nhau, từ “Nhập ngũ” đầu tiên đến “Nước mắt quê hương” cuối cùng. Đọc “Chuyện lính Tây Nam”, tôi rất chú ý đến tâm thế của người lính trong một cuộc chiến với một đối phương đặc biệt, vốn trước đó là đồng chí của nhau (Khme Đỏ). Nếu đánh nhau với quân Pháp, quân Mỹ xâm lăng thì ngay từ đầu cho đến khi cuộc chiến kết thúc, kẻ thù được xác định rất rõ ràng. Nhưng rất khác khi đánh nhau với một đối phương (quân Pôn Pốt) luôn không có khái niệm tù binh (!?). Như thế có nghĩa là chúng ta đang trực đấu với một đối phương chỉ có một nguyên tắc hủy diệt. Một đội quân chỉ biết thôn tính, xóa sổ, tận diệt đối phương. Tính chất khốc liệt của cuộc chiến mới chính là ở chỗ này. Nên lính Tây Nam vì thế không vô tình khi: “Trong nỗi nhớ có riêng thêm niềm kiêu hãnh ngấm ngầm của người lính vừa đánh thắng. Cảm xúc dấn thân chinh phục pha màu lãng tử ấy là có thật. Có thể nó bắt nguồn từ tấm lòng vị nghĩa hay đức hy sinh vốn có, bình thường vẫn tiềm ẩn đâu đó trong con người”. Đã vào cuộc chiến thì lẽ sinh tử là mặc nhiên. Nhưng lính Tây Nam vẫn cứ đau đáu nỗi niềm: “Chỉ bốn tháng sau, chúng tôi đã thành đồng đội, cũng hành quân rạc rài như thế, cũng chui hầm ngủ đất, không biết sống chết thế nào ở một nơi xa lắc”. Viết như thế là chân thành đến tận xương tủy. Trong thơ thời chống Pháp, có bài “Lên Cấm Sơn” của Thôi Hữu, trải mấy chục năm đọc lại vẫn rưng rưng xúc động vì sự chân thật của cảm xúc đến tận cùng: “Lòng tôi xao xuyến tình thương xót/ Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa/ Tặng những anh tôi từng rỏ máu/ Đem thân xơ xác giữ sơn hà”. Hôm nay đọc “Chuyện lính Tây Nam” của Trung Sỹ lại thấy cảnh: “Gần bốn tháng trời hành quân tác chiến ròng rã không ngơi nghỉ, lăn như bống hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Anh em chúng tôi áo quần rách rưới, tóc tai dài cợp như một lũ người rừng. Đồ lính mỏng tang thấm mồ hôi lâu, trắng loang vai dưới nắng ngày hun, bợt bạt nhiều đêm ngâm suối thường chóng mủn (...). Có đến một ngàn bà mẹ vá áo đêm đêm cũng chẳng bao giờ kịp. Rừng thẳm U răng không phải tỉnh Hà Bắc, và chúng tôi đang lặn lội xứ người (...). Rừng xanh bỗng bày đặt hoành tráng như một sân khấu. Trên cái võng liên tục đó, chúng tôi ngồi tự khâu lấy quần đùi, quần dài cho mình bằng những đường khâu mũi đột còn ngoằn ngoèo vụng dại. Tôi vừa cặm cụi khâu vừa nhớ đến mẹ tôi. Trước ngày nhập ngũ, mẹ tôi đã kịp dạy tôi đường khâu mũi đột mau này. Người đàn ông ngồi khâu có khi còn thương hơn cả người đàn bà ngồi đan trong quá khứ”. “Chuyện lính Tây Nam” đầy rẫy những cảnh chết chóc của chiến tranh, nhưng có lẽ những gì khiến độc giả xúc động, nhớ lâu phải chăng lại là những cảnh như thế? Vì thế mà: “Từ ngày giải ngũ tôi không dám mặc áo lính, bởi nhớ những tấm áo bết máu bạn bè, bởi tấm áo trận dù rách rưới ngày xưa đã trót khoác vào hồn rồi thì không sao cởi ra được nữa”. Những cảnh khốc liệt chiến trận không thiếu. Nhưng nếu đem ra so sánh với “Mùa chinh chiến ấy”, “Lính Hà” thì chưa hẳn đã là phần ưu trội của “Chuyện lính Tây Nam”. Tôi muốn nói đến góc nhìn, cách nhìn chiến tranh của tác giả. Sự man rợ, thú tính của bọn lính Pôn Pốt chính là chỗ này. Chúng nó thích giết, triệt hạ đồng loại bằng những cách thức và phương tiện thô sơ nhất. Cuộc chiến ở Campuchia cũng đã đẩy hàng triệu dân lành vô tội vào cảnh nồi da nấu thịt: “Lửa nóng bếp cháo đánh thức, gọi dậy từ đâu đó một mùi gây rất lạ. Tụi trinh sát nhăn mũi hít hít, lấy mũi súng hẩy nắp túi mìn, lục lọi khám bồng. Trên cái xe bò, một thằng bé con đã chết trước khi được ăn cháo. Cạnh chỗ nó là một cái gùi, bên trong có mấy miếng thịt nâu xông khói. Mùi gây lạ lùng kia tỏa ra từ đây. Anh Ky bới sâu xuống đáy, nhấc lên một mẩu thịt sấy khô đét. Hắn nghi ngờ rồi chợt rùng mình quăng xuống. Đó là một cẳng tay người”. Cách viết về chiến tranh của Trung Sỹ dễ tạo nên những ám ảnh nghệ thuật.

Không có mất mát nào lớn bằng cái chết. Nhiều người cứ vân vi muốn biết rõ trong cuộc chiến biên giới Tây Nam, chúng ta đã tổn thất bao nhiêu về sinh mạng chiến sĩ. Cách viết tối giản nhưng giúp độc giả sẽ hình dung đủ đầy: “Quân số hao hụt trong chiến đấu, nay càng hao hụt thêm vì sốt rét.  Mỗi đại đội lúc này thường chỉ còn khoảng ba chục tay súng kể cả thông tin đi phối thuộc. Có những trung đội chỉ còn sáu người, đại đội lại phải san bớt người ở các trung đội khác sang”. Sẽ có người băn khoăn bộ đội ta đi trận lâu ngày như thế, lại đang trai tráng cả thì chuyện tình cảm, nhất là chuyện sinh lý sẽ giải quyết như thế nào? Trung Sỹ cũng chẳng ngại ngần gì mà không kể một cách thẳng băng trong chuyện “Tinh trùng sốt rét”. Lại có chuyện kể ra thể hiện cái tình của người viết với đồng đội. Tôi chưa thấy ai viết một cách dí dỏm, độc đáo về cái cách lính ta “khám tù binh nữ” như Trung Sỹ. Một bận có 5 địch nữ đi lạc vào trận địa quân ta. Dĩ nhiên là bọn họ bị bắt sống: “Đồ đạc phụ tùng trên người rơi lả tả, tay đưa lên trời cho lính khám. Kiểm tra quân tư trang không có gì đặc biệt (...). Mấy người lính càng khám kỹ, khuôn mặt tù binh càng giãn ra. Có tiếng kêu khẽ, bởi thấy cơ hội sống sót khá lớn khi bị khám kỹ thế này. Đám nữ tù binh hiểu đã gặp những con người bình thường, gặp các hành động bình thường chứ không phải gặp quân ác thú”.

Đọc “Chuyện lính Tây Nam” ta cảm nhận được những gì đang hồi sinh rõ ràng hơn những gì đã bị hủy diệt. Đó chính là ký ức lương thiện giúp con người thấu thị hơn quá khứ. Đó chính là thành công của tác phẩm. 
(0) Bình luận
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Dưới tán bàng mùa thu
    Mẹ đứng dưới tán bàng trĩu quả xanh, gió đầu thu khẽ thổi lay lay những chùm lá đã ngả màu. Một chiếc lá bàng vừa lìa cành, xoay mình trong không trung rồi rơi nhẹ xuống như thể mùa hè vừa kịp khép lại một cách lặng lẽ. Trên sân trường rộng, học trò lớp lớn lớp bé nối nhau tiến về các dãy lớp học, áo trắng dập dờn trong ánh nắng dịu dàng, tiếng loa phát bài hát mùa khai trường vang vọng giữa không gian mùa thu yên bình mà rộn rã.
  • Triển lãm “Dáng hình của đất”: Gắn kết tinh hoa gốm Việt – Nhật, lan tỏa giá trị di sản
    Sáng 19/9, tại Bảo tàng Hà Nội đã diễn ra lễ khai mạc triển lãm “Dáng hình của đất”. Sự kiện do Trung tâm Điều phối các hoạt động sáng tạo Hà Nội (Bảo tàng Hà Nội), làng gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), làng gốm Toho (Nhật Bản) và các nghệ nhân trong, ngoài nước tổ chức. Đây là một hoạt động ý nghĩa nhằm kết nối tinh hoa nghề truyền thống, đồng thời giới thiệu và tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của gốm thủ công.
  • “Dần sáng” - đường bay viên cuội trắng
    Sau tập thơ “Thức cùng tưởng tượng” đã neo lại ít nhiều thao thức cho người đọc bởi long lanh chữ nghĩa, bởi những câu thơ hàm súc và tài hoa, Nguyễn Thị Kim Nhung vừa ra mắt bạn đọc tập thơ “Dần sáng” với 45 bài thơ như những “đóa kiêu sa” được đất trời ấp ủ.
  • Việc xảy ra ở Trường THCS Đại Kim: Xử lý nghiêm để học sinh nhận thức rõ sai lầm
    Sự việc học sinh lớp 7 có hành vi giật tóc, ghì đầu cô giáo ngay trong lớp học tại Hà Nội đã gây chấn động dư luận. Không ít ý kiến cho rằng cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc nhằm bảo vệ uy tín, danh dự của nhà giáo và giữ gìn kỷ cương trường học.
  • Để học sinh Thủ đô thay đổi hành vi không đúng mực, cùng xây dựng “Trường học hạnh phúc”
    Thành phố Hà Nội đã, đang chú trọng xây dựng và phát triển “Trường học hạnh phúc”. Mỗi cơ sở giáo dục, mỗi trường học của Thành phố là ngôi nhà thứ hai, giáo viên là “mẹ hiền”, nhà trường là nơi chắp cánh cho các em học sinh vươn cao, bay xa trong tương lai. Nhưng không vì thế Hà Nội lơ là trong công tác quản lý, xử lý khuyết điểm, hành vi không đúng mực của học sinh để từ đó các em thay đổi hành vi, chung sức xây dựng thêm các “Trường học hạnh phúc”.
Đừng bỏ lỡ
  • Hà Nội triển khai tuyên truyền hướng tới Đại hội XVIII Đảng bộ Thành phố và Đại hội XIV của Đảng
    Phó Chủ tịch UBND Thành phố Trương Việt Dũng vừa ký ban hành Công văn số 5096/UBND-KGVX ngày 15/9/2025 về việc thực hiện Kế hoạch số 349-KH/TU ngày 08/7/2025 của Thành ủy Hà Nội về tuyên truyền đại hội Đảng bộ các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVIII và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV.
  • Ngôi làng ở Hội An lọt top 50 thôn làng đẹp nhất thế giới
    Cẩm Thanh (TP Đà Nẵng) - "lá phổi xanh" của Hội An, Việt Nam được tạp chí Mỹ Forbes vinh danh trong top 50 thôn làng đẹp nhất thế giới, với vị trí thứ 20.
  • Ấn tượng chương trình nghệ thuật “Ơn nghĩa sinh thành 2025”
    Tối 18/9, tại Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt Xô (Hà Nội), chương trình nghệ thuật “Ơn nghĩa sinh thành 2025” đã diễn ra trong không khí trang trọng và xúc động. Với sự tham gia của nhiều nghệ sĩ tên tuổi cùng sự dàn dựng công phu, chương trình đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả.
  • “Vivaldi & Beethoven”- đêm hòa nhạc đặc biệt đến với khán giả Thủ đô
    Dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội (Hanoi Philharmonic Orchestra) sẽ mang đến cho khán giả Thủ đô đêm hòa nhạc đặc biệt “Vivaldi & Beethoven” vào lúc 20h ngày 20-9 tại Nhà hát Hồ Gươm (40 Hàng Bài, phường Cửa Nam, Hà Nội).
  • Nhà thờ họ Giang Nguyên ở làng Triều Khúc
    Làng Triều Khúc (nay thuộc phường Thanh Liệt, Hà Nội) xưa có tên là Trang Khúc Giang. Một thời làng có tên gọi là Đơ Đồng, rồi khi có nghề dệt Thao gọi là làng Đơ Thao. Dòng họ Giang Nguyên ở Triều Khúc là một họ đặc biệt, chỉ tồn tại duy nhất tại vùng đất này. Theo gia phả, họ Giang Nguyên đến định cư tại Triều Khúc từ thế kỷ thứ VI, thời kỳ nội thuộc nhà Đường. Khi ấy, cùng với các họ Triệu, Bùi, Hoàng và Nguyễn, họ Giang là một trong năm dòng họ đầu tiên đến lập ấp ở khu vực giếng Liên (nay là khuôn viên Học viện An ninh Nhân dân).
  • “Cách quê, cách quán nhớ tương Cự Đà”
    Nằm bên bờ sông Nhuệ, thôn Cự Đà, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội (nay thuộc xã Bình Minh, TP Hà Nội) từ xa xưa đã nổi danh với nghề thủ công làm miến và làm tương. Qua bao thăng trầm của thời gian, tương Cự Đà đã trở thành một sản vật nổi tiếng của vùng ven đô Hà Nội.
  • [Infographic] 8 công trình dự kiến khởi công dịp kỷ niệm 71 năm Ngày Giải phóng Thủ đô
    Trong dịp kỷ niệm 71 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2025), thành phố Hà Nội sẽ khởi công 8 dự án trọng điểm trong các lĩnh vực hạ tầng giao thông, y tế, văn hóa và đô thị, góp phần thúc đẩy đầu tư công, tạo nguồn lực phát triển kinh tế, xã hội Thủ đô.
  • “Con thuyền không bến 9” - Đêm nhạc tôn vinh tình khúc vượt thời gian
    Vào tối 27/9 tới đây, tại Nhà hát Nghệ thuật Đương đại Việt Nam khán giả Hà Nội sẽ được thưởng thức trở lại với những tình khúc vượt thời gian qua đêm nhạc “Con thuyền không bến 9”...
  • Tháng 11, diễn ra Liên hoan phim Việt Nam lần thứ XXIV
    Với chủ đề dự kiến "Điện ảnh Việt Nam - Phát triển bền vững và hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới", Liên hoan phim Việt Nam lần thứ XXIV dự kiến sẽ diễn ra từ ngày 21 – 25/11/2025 tại TP Hồ Chí Minh.
  • Phát huy sức mạnh đại đoàn kết, xây dựng phường Hoàng Mai giàu đẹp, văn minh
    Ngày 16/9, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam phường Hoàng Mai tổ chức phiên chính thức Đại hội đại biểu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 với sự tham gia của 190 đại biểu chính thức.
“Chuyện lính Tây Nam” - Một ký ức lương thiện
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO