Khói sương huyền thoại
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, mục “Từ miếu”, có thuyết cho rằng ông là người thôn Đồng Bụt, huyện Yên Sơn (nay là xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Hà Nội). Cha ông là Từ Vinh, mẹ là Tăng Thị Loan. Hiện nay, tại Gò Nở thuộc Ngọc Liệp vẫn còn nền đất cũ của nhà ông.
Nhưng cũng sách này, khi chép sự tích về Từ Đạo Hạnh ở mục “Tự quân” thì lại viết: Thiền sư, họ Từ, tên Lộ, tự Đạo Hạnh, người làng An Lãng, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc Hà Nội); tu ở am Hương Giang trong khu vực chùa Thiên Phúc (chùa Thầy, huyện Quốc Oai). Khi vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) đã cao tuổi mà chưa có con nối dõi, em vua là Sùng Hiền Hầu cùng Từ Đạo Hạnh bàn chuyện cầu tự. Ông hẹn khi phu nhân sắp sinh thì báo cho biết. Nhận tin báo, ông tắm rửa sạch sẽ rồi vào trong động núi chùa Thầy. Phu nhân sinh con trai, sau là vua Lý Thần Tông. Sau đó Từ Đạo Hạnh hóa, dân làng đem xác vào trong khám gỗ để thờ. Hằng năm, vào ngày 6-3 (âm lịch) thì làm lễ để chuẩn bị cho ngày 7-3 là ngày kỵ của ông. Vào ngày đó, dân khắp nơi kéo về chùa Thầy dự hội. Trong chùa Thiên Phúc (chùa Cả - chùa chính), bên trái thờ tượng thiền sư, bên phải thờ tượng vua Lý Thần Tông, ở giữa thờ Phật.
Đến giai đoạn thuộc nhà Minh phương Bắc, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 - 1427), xác của ông bị quân Minh đốt cháy, dân làng đã công đức đúc tượng ông để thờ. Đến triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), cha của hoàng hậu Trường Lạc là Nguyễn Đức Trung đi cầu tự trong động chùa thì có một tảng đá bay đến bèn đem về tạc thành tượng Phật để thờ. Sau đó, hoàng hậu nằm mộng thấy rồng vàng bay vào sườn trái, thụ thai rồi sinh con trai, sau là vua Lê Hiến Tông (1498 - 1504).
Còn theo dân gian thì Từ Đạo Hạnh là người Nam Điền, làng Yên Lãng (nay là làng Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội). Ông đỗ đầu khoa Bạch Liên nhưng không ra làm quan mà xuất gia sang Ấn Độ học đạo. Khi về núi Thầy, ông dạy học, giảng đạo, chữa bệnh, dạy dân các trò đá cầu, đánh vật, múa rối nước, hát chèo... Về dấu tích ông để lại, sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1782 - 1840) viết: Trên núi Sài Sơn (Cổ Sài), có hang sâu là nơi ông giải thi (hóa), để lại dấu đầu và dấu chân khổng lồ. Sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn cho biết: Trong chùa Thiên Phúc có chuông đồng do Từ Đạo Hạnh cho đúc, đến đời Lý Nhân Tông, đại sư Huệ Hưng là đệ tử của ông đã soạn bài ký rồi Lạng Nghiệp Thường khắc chữ lên chuông. Sách “Lịch sử - văn hóa Quốc Oai” (NXB Lao Động, 2010), trang 207, cho biết: Nguyên thủy, chùa xây dựng năm 1057, có tên là “Thiên Phúc tự”; cuối thế kỷ XI thì Từ Đạo Hạnh về đây tu luyện; sau khi ông mất, năm 1117, thì chùa mang tên chùa Thầy để tôn kính ông; cả làng, tổng và núi cũng gắn với tên Thầy từ đó.
Cuộc đời của một người nổi tiếng như Từ Đạo Hạnh - vừa là thánh, vừa là phật, vừa là vua - bao phủ lớp lớp huyền thoại nhưng cốt lõi vẫn là những điều gần gũi với chúng sinh, mang tính nhân đạo.
Cao tăng - nhà thơ Từ Đạo Hạnh
Khi đã trưởng thành, Từ Đạo Hạnh đi khắp thiên hạ để học đạo. Nghe tin đại sư Kiều Trí Huyền (còn gọi là Kiều Tứ Huyền hay Cao Trí Huyền) nổi danh tại Thái Bình, ông tới xin tham vấn. Những câu hỏi của ông ghi trong bài kệ “Vấn Kiều Trí Huyền”: “Cửa hỗn phàm trần vị thức kim/ Bất tri hà xứ thị chân tâm/ Nguyệt thùy chỉ đích khai phương tiện/ Liễu kiến như như đoạn khổ tầm” (“Lẫn lộn phàm trần chưa biết vàng/ Chẳng hay đâu đó ấy lòng chân/ Nguyện xin chỉ giáo bày phương tiện/ Thấy rõ như như khỏi nhọc tìm”).
Đại sư Cao Trí Huyền đã trả lời ông cũng bằng một bài kệ: “Ngọc lí bí thanh diễn diệu âm/ Cá trung mãn lục lộ thiền tâm/ Hà Sa cách thị Bồ đề tạo/ Nghị hướng Bồ đề cách vạn tầm” (“Minh ngọc vang đưa tiếng ảo huyền/ Ở trong vẫn lộ tấm lòng thiền/ Cát sông là cõi Bồ đề đó/ Mà tưởng còn xa mấy dặm nghìn” - bản dịch của nhà văn Ngô Tất Tố, 1894 - 1954).
Từ Đạo Hạnh chưa hiểu, đến chùa Pháp Vân, hỏi thiền sư Sùng Phạm về chân tâm. Thiền sư trả lời: “Chỗ nào lại không là chân tâm? Ngay như đói khát, ăn uống cũng là chân tâm. Hiểu chân tâm chỉ có thể trực tiếp mà lĩnh hội, chứng ngộ bằng chính cuộc sống của bậc chân tu”. Ông trở về chùa Thiên Phúc, tiếp tục tu luyện pháp thuật và đắc đạo, đạt đến độ ung dung tự tại. Chân lý mà ông ngộ được là: “Phật tại tâm”.
Ngoài bài kệ kể trên, ông còn có 3 bài: “Hữu không”, “Thất châu” và “Thị tịch cáo đại chúng”. Đó là những bài nói về lẽ diệu huyền của đạo Phật được thể hiện dưới hình thức thơ đạt đến trình độ nghệ thuật cao.
Từ Đạo Hạnh là một đại thiền sư, một người thầy mà người người tôn kính. Ông là một thánh tăng của người Việt đã để lại 2 dấu ấn rõ nét: Đặt nền móng cho giáo lý Phật học mang tính dân gian bản địa; mở đầu cho môn phái Mật Tông của đạo Phật (kết hợp Phật giáo và Đạo giáo, tu phật rồi tu tiên). Nếu kể cả hậu thân của ông là vua Lý Thần Tông thì ông còn là vua. Vậy là trong ông hài hòa cả 3 quyền lực tối cao: Tiên (thánh) - phật - vua, đúng như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) viết trong đôi câu đối treo ở chùa Thượng: “Vị tiên, vị phật, vị quốc vương, sinh hóa tam thân lưu dị tích/ Hữu hồ, hữu động, hữu Thiên Thị, giang sơn nhất đái biểu kỳ quan” (“Là tiên, là phật, là quốc vương, sống thác ba thân còn tích lạ/ Có hồ, có động, có Chợ Trời, nước non một dải cảnh tuyệt kỳ”).
Ông tổ nghề chèo Nghệ thuật chèo hình thành từ thời Đinh (thế kỷ X), qua các thời Lý - Trần (thế kỷ XI - XIV) thì phát triển không ngừng và tương đối hoàn chỉnh vào thời Lê (thế kỷ XV). Khi Từ Đạo Hạnh sinh ra, chèo đã có hơn 1 thế kỷ nhưng vẫn còn rất đơn giản. Thường ngày, Từ Đạo Hạnh cùng bạn bè xem diễn trò, tập thổi sáo, đánh trống, diễn lại các tích trò. Từ chỗ bắt chước và lệ thuộc, ông đã tự đặt ra các trò mới và cùng các bạn tập diễn, sau đó phổ biến lại cho các gánh trò. Ông chú trọng tìm cách phát triển nghệ thuật diễn xuất độc đáo của chèo.
Thời đó, những người làm trò diễn tích đều lấy ứng khẩu tức thời làm thủ pháp chính nên dần dần các tích trò bị mai một vì không có phương tiện lưu giữ. Từ Đạo Hạnh đã phát hiện ra hạn chế này và trong thực tế, ông là người đầu tiên soạn các tích trò trên văn bản viết. Đến nay, bài giáo trò của ông vẫn được lưu truyền: “Trình (Chiềng) làng trình (chiềng) chạ/ Thượng hạ tây đông/ Tư cảnh hòa trung/ Nghe tôi giáo trống/ Trường không phong động/ Cũng bởi trống tôi/ Làng đã vào ngồi/ Tôi xin diễn tích”.
Hầu hết các tích trò ông soạn đều là những câu chuyện đạo lý như sự tích những người tu nhân tích đức rốt cuộc được hưởng phúc trời; những nhà sư khổ luyện được đắc đạo thành phật... Tư tưởng chủ đạo toát lên ở các tích trò là khuyến thiện, trừng trị kẻ ác...
Sau nghệ nhân Phạm Thị Trân (925 - 976), nghệ nhân Đào Văn Só (951 - 975) và cùng thời với nghệ nhân Sai Ất (? - ?), thiền sư Từ Đạo Hạnh được coi là một ông tổ nghề chèo, đã đưa nghệ thuật chèo tiến lên một bước phát triển mới, định hình phong cách của một loại hình nghệ thuật biểu diễn độc đáo. Ông còn là một trong những người đào tạo ra những nghệ sĩ chuyên nghiệp đầu tiên, chuyên sống bằng nghề hát chèo, diễn tích. Đóng góp của thiền sư Từ Đạo Hạnh cho nghệ thuật chèo thật to lớn, qua đó góp phần bồi đắp truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.