1. Quê cha Hà Tĩnh, quê mẹ Bắc Ninh, sinh hạ ở Thăng Long, có thể nói, căn cốt văn hóa Nguyễn Du là sự hòa quyện văn hóa vùng miền Kinh Bắc, xứ Nghệ và kinh đô Thăng Long. Nhưng có lẽ, vì là khởi đầu nên văn hóa Thăng Long có vai trò chiến lược, kiến tạo, dẫn dắt.
Một sự kiện khác trong đời sống của Nguyễn Du ở đất Thăng Long, theo tôi, cũng rất đáng quan tâm, đó là quan hệ tình cảm của Nguyễn Du với nữ sĩ Hồ Xuân Hương theo lối “giai nhân - tài tử”. Khoa học liên ngành cho thấy thời kỳ từ lúc sinh ra, qua tuổi thiếu niên và hoa niên là quãng thời gian quan trọng nhất trong sự hình thành nhân cách mỗi người. Thử hình dung, thứ nhất, nếu Nguyễn Du được sinh ra ở một không gian khác thì sự tình sẽ như thế nào? Thứ hai, con người được sinh ra trong một gia đình nào cũng là yếu tố cực kỳ quan trọng cho sự phát triển toàn diện của một nhân cách. “Hổ phụ sinh hổ tử”. Bố và anh cả của Nguyễn Du là chứng nhân một thời của Thăng Long, những người gắn bó mật thiết với Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Khía cạnh thứ hai của vấn đề “Nguyễn Du trong không gian văn hóa Thăng Long”, thiết nghĩ lại phải bàn thảo rộng hơn khi gắn không gian văn hóa Thăng Long với không gian văn hóa Kinh Bắc, xứ Nghệ. Nhận định sau là toàn diện: “Nguyễn Du là nhân cách văn hóa hiếm hoi của Việt Nam, tích hợp, vượt gộp tinh hoa văn hóa của quê hương Hà Tĩnh rất trọng nghĩa tình, nơi hình thành những dòng văn học, dòng họ văn hóa lớn nhất nước, tích hợp được trong mình cả quê ngoại những làn điệu dân ca quan họ đậm chất trữ tình, với sự tích tụ truyền thống quan huấn và kinh nghiệm làm quan của người cha và người anh cùng cha khác mẹ. Đồng thời, ở Nguyễn Du còn có sự tích hợp tinh hoa văn hóa Thăng Long, văn hóa Trung Hoa. Những biến cố lớn, những cuộc bể dâu của triều đại, đặc biệt là phẩm tính thiên tài của ông... đã tác động, nhào nặn và tạo nên một nhân cách văn hóa Nguyễn Du vừa sâu như biển vừa cao như núi non và ôm trọn mọi kiếp người” (Nguyễn Du tiếp cận từ góc độ văn hóa - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014).
2. Khi Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn, lấy Phú Xuân làm kinh đô, Thăng Long từ đó thành cố đô trong tâm khảm Nguyễn Du. Theo tôi, đó là sử liệu gợi nghĩ, một lần nữa giúp khẳng định: Thăng Long là cội nguồn, cội rễ, căn đế, căn cốt, nền tảng văn hóa sinh ra thiên tài Nguyễn Du - Danh nhân Văn hóa thế giới, Nguyễn Du - tác giả kiệt tác Truyện Kiều như là “linh kinh” (nhận xét của nhà văn Đặng Thai Mai) của người Việt.
Trong Niên biểu Nguyễn Du ghi rõ từ năm 1783 (18 tuổi) Nguyễn Du đã lấy vợ (kết hôn với con gái Đoàn Nguyễn Thục), và năm 1784 bắt đầu về quê vợ ở xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Năm 1813, Nguyễn Du được thăng chức Cần Chánh điện Đại học sĩ, trở lại Thăng Long và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Thi phẩm Bắc hành tạp lục (gồm 131 bài thơ chữ Hán), được mở đầu bằng các bài thơ có liên đới đến kinh đô là Long thành cầm giả ca (Bài ca người gảy đàn đất Thăng Long), hai bài Thăng Long và Ngộ gia đệ cựu ca cơ (Gặp người hát cũ của em).
Giới nghiên cứu cho rằng, bình thường khi trở lại Thăng Long sau nhiều năm, chắc hẳn Nguyễn Du phải phục sinh cảm xúc được sống giữa các văn nhân/ nhà nho tài tử, giữa những trung tâm nghệ thuật quý tộc chốn kinh kỳ đông đảo tao nhân mặc khách... Trái lại, ông nhìn sâu và thấu cảm với những sinh linh yếu hèn, tội nghiệp, cơ hàn. Đó là những “xướng ca vô loài” như định kiến thủ cựu (phải chăng vì thế sau này Nguyễn Du viết Độc tiểu thanh ký trên đất Trung Quốc?).
3. Có thể so sánh Thăng Long thành hoài cổ của Bà huyện Thanh Quan (thế kỷ XIX) và Long Thành cầm giả ca của Nguyễn Du để thấy rõ hơn không gian văn hóa Thăng Long đã đi vào văn chương như một động hướng tinh thần, tâm lý, tình cảm của những nghệ sĩ lớn.
Bài thơ của Nguyễn Du dài 48 dòng, còn bài thơ của Bà huyện Thanh Quan chỉ có 8 dòng. Nhưng thơ hay không tính dài, ngắn. Thăng Long thành hoài cổ đẫm hơi hướng hoài cổ: “Tạo hóa gây chi cuộc hý trường/ Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương/ Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương/ Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt/ Nước còn chau mặt với tang thương/ Nghìn năm gương cũ soi kim cổ/ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”. Bài thơ này được nữ sĩ viết chỉ có thể sau sự biến năm 1802, khi Nguyễn Ánh lên ngôi, định đô ở Huế, từ đó Thăng Long mất địa vị trung tâm của đất nước; thể hiện cảm tác về cảnh hoang tàn của cố đô đất Bắc.
Long Thành cầm giả ca được viết năm 1813. Bài thơ gồm 48 dòng, thể hiện tâm trạng hoài cổ, cảm thán cảnh phế hoang của kinh thành nhìn từ nhân tình thế thái, từ sự suy vi của những người mang nghiệp nghệ thuật/ cầm ca: “Khúc xưa từng tiếng bồi hồi/ Ta nghe tê tái, lệ rơi đáy lòng/ Chuyện xưa, hai chục năm ròng/ Người đêm hồ Giám tiệc tùng là đây/ Thời gian: thành chuyển, người thay/ Nương dâu, bãi bể ai hay chuyện đời/ Tây Sơn cơ nghiệp tan rồi/ Chỉ còn sót lại một người kỹ ca...”.
Đọc thơ của Bà huyện Thanh Quan và Nguyễn Du, chúng ta thấm thía hơn câu “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” trong kiệt tác Truyện Kiều. Văn hóa và đạo đức vốn dĩ là hai phạm trù khác nhau. Tất nhiên. Nhưng trong trường hợp cụ thể nào đó, trong một ý nghĩa nào đó, cả hai phạm trù này giao thoa, tựa như hai vòng tròn đồng tâm.