Hồ Tây thấp thoáng mái chùa
Cuộc thi viết Hà Nội & Tôi - Ngày đăng : 16:19, 23/11/2022
Chùa Trấn Quốc là ngôi chùa vào loại cổ nhất ở nước ta, tương truyền có từ đời Lý Nam Đế (544 - 548). Thuở ấy, chùa được dựng sát bờ sông Cái (sông Hồng), có tên Khai Quốc (mở nước). Đến đời Lê Thái Tông (1440-1442), đổi gọi là chùa An Quốc. Đời Lê Kính Tông (1600 - 1618): bãi sông lở, dân dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng giữa Hồ Tây (địa điểm hiện nay) nơi các vua Lý dựng cung Thuý Hoa; đời Trần đã dựng điện Hàm Nguyên. Đời Lê Hi Tông (1680 -1705) gọi là chùa Trấn Quốc. Khoảng thế kỷ 15 (hoặc 17), do đắp đê Cổ Ngư nối đê với đảo Cá Vàng...
Chùa hiện giữ được lối kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa: phía trước là nhà bái đường, rồi đến nhà tam bảo, phía sau mới là hai dãy hành lang. Thập điện và gác chuông. Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý nhất là pho tượng Thích Ca nhập niết bàn bằng gỗ thếp vàng. Có giá trị như tượng chùa Phổ Minh (Nam Định).
Bia năm 1639 do trạng nguyên Nguyễn Xuân Chinh soạn, ghi việc trùng tu chùa Trấn Quốc. Bài ký trên bia chùa Thiên Niên (1893) ở Trích Sài khắc :
Hồ Tây, trước kia là khu rừng rậm rạp mọc toàn gỗ lim. Trong rừng có hòn núi nhỏ, có con cáo 9 đuôi đã thành tinh ẩn náu trong hang núi đó, thường thường hiện hình làm hại người và vật, đã lâu ngày không trừ được.
Vua Tiền Lý Nam Đế làm lo, sai 2 công chúa đi học pháp thuật để trừ hại cho dân. Hai công chúa tu luyện 3 năm, kết quả chưa thành. Cáo yêu càng quấy nhiễu dữ. Hai công chúa xin sang phương Bắc học đạo. Thuyền đi đến sông Nguyệt Đức, buổi chiều gặp một vị đại tiên. Tiên nói: “Ta nghe hai công chúa có chí trừ yêu quái mà hồ tinh lọt lưới, ẩn nấp chưa trừ được. Vậy ta đến giúp để cứu dân”. Hai công chúa mừng lắm; đón vị đại tiên về và vào tâu vua cha. Vua cho mời vị tiên, hỏi tường tận về pháp thuật. Tiên ông bảo hãy chuẩn bị lập đàn ở nơi cao ráo, sạch sẽ, dựng 8 cửa, 8 tháp như hình Bát trận đồ. Tiên dạy hai công chúa tất cả những bí quyết phù trú. Trong khoảng trăm ngày, việc học tập đã thành thạo. Bèn chọn ngày tốt, xem địa thế lập đàn, trừ yêu. Dùng cờ và lọng ngũ sắc, mỗi thứ 100 cái. Rước vị Huyền Chân Đại Đế ở phương Bắc chủ trì đàn trấn yêu, lại dựng miếu thờ vĩnh viễn, để yêu quái sau khi bắt được, không thể lại hiện hình, tác quái. Vua theo lời, lập 3 đàn, đàn giữa thờ thiên - địa - thần kỳ do vị đại tiên chủ trì, đàn tả thờ dương thần, đàn hữu thờ âm thần do hai công chúa phụng lễ.
Đến ngày lễ đàn, tiên ông một tay cầm bùa, một tay cầm kiếm, chỉ vào trước núi đá. Bỗng thấy yêu cáo từ trong hang núi nhảy vọt ra. Đá núi đổ xuống, sóng nước sôi lên, bắn tung bốn phía. Rừng lim sụt xuống. Tất cả biến thành hồ nước. Đất sụt đến tận bên cạnh đàn thờ. Trong đàn lửa bốc lên, cờ, lọng bị cháy hết. Phía trên đám lửa kết thành một làn mây đen bay lên lưng chừng trời. Tiên ông bắt trói cáo yêu bay lên không trung. Sau không thấy nữa, chỉ còn hai công chúa bắt quyết ngồi ở đàn, lửa chẳng hề bén đến thân thể”. Miếu thờ hai công chúa hiện vẫn còn ở Trích Sài, phường Bưởi và Xóm Nghiễm Phúc, phường Quan Hoa.
Chùa Kim Liên ở thôn Nghi Tàm, phường Quảng An. (Đại Bi tự), xây dựng từ năm 1639 ,trên nền cũ của cung Từ Hoa, nơi con gái vua Lý Thần Tông ở, cùng cung nữ trồng dâu nuôi tằm đầu thế kỷ 12. Nơi đây, sau thành trại tằm tang nên có tên là Nghi Tàm. Chùa còn có thời kỳ gọi là Đống Long. Năm 1771, thời Lê, Chúa Trịnh Sâm sai quan quân dỡ chùa Bảo Lâm ở phía Tây Thăng Long đem về tu sửa thêm vào chùa và đặt tên mới là Kim Liên. Năm Quang Trung thứ 5 (1792) chùa được tu bổ lại có dáng vóc như ngày nay.
Chùa kiến trúc theo kiểu chữ Tam, rất cổ kính. Bên ngoài là tam quan, một công trình kiến trúc giá trị. Nếp chùa thứ nhất và thứ nhì trông về hướng Tây, riêng nếp thứ ba lại áp lưng vào nếp thứ nhì, quay mặt về hướng Đông.
Chùa Quảng Bá, phường Quảng An (Quảng Bố Tự), còn gọi là chùa Long Ẩn. Chùa do công chúa Ngọc Tú, vợ chúa Trịnh Tráng (1623-1657) xây dựng từ năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628). Thời Nguyễn, đổi là Sùng Ân rồi Hoàng Ân. Tiến sĩ Vũ Tông Phan (thế kỷ 19) vịnh cảnh chùa:
Lá thuyền nhè nhẹ ghé thăm chùa
Sắc nước hương hoa chim hót đua
Hóng mát tắm ven vòm lá rậm
Một bầu thế giới biết đâu thu.
Về thăm vùng Bưởi, ta gặp một vùng đất đầy ắp huyền thoại và di tích chùa chiền. Chùa Vĩnh Khánh có tấm bia cổ (1668). Năm 1964 - 1972 Thành uỷ Hà Nội đặt hầm chỉ huy ở đây để chỉ đạo chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ.
Chùa Tĩnh Lâu (Thanh Lâu) có từ thời chúa Bình An (Trịnh Tùng). Năm 1620, chúa cho khắc bia để bảo vệ cảnh quan và ruộng chùa. Năm 1793 thời Cảnh Thịnh, chùa được trùng tu lớn. Năm 1799, đúc chuông. Năm 2000 trùng tu Tam quan và cảnh chùa.
Dạo quanh một vòng Hồ Tây, khách du bâng khuâng thi tứ:
Buồm nửa lá trăng thanh gió dịu
Chiều đâu một tiếng chuông rơi
Tây Hồ cảnh đẹp biết mấy mươi...
(Nguyễn Công Trứ)
Bao mái chùa quanh Hồ Tây ghi lại dấu chân của nhiều phái Thiền ở Thăng Long và đất Việt: Chùa Trấn Quốc (phái Tào Động), chùa Vạn Ngọc (phái Trúc Lâm), chùa Kim Liên (phái Bạch Liên). Nhà thơ Nguyễn Đức Lưu người Nghi Tàm xúc động tuôn trào khi nghe văng vẳng tiếng chuông chùa Hồ Tây:
Chim đàn giọt nắng trong veo
Vườn trưa nâng chén, lá chèo lửng lơ
Chuông chùa ngân tiếng chuông xưa
Đâu trăng bến Trúc, ngẩn ngơ đi tìm./.
Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Hà Nội và tôi" của tác giả Văn Hậu. Thông tin về cuộc thi xem tại đây.