Đời sống văn hóa

Bạn thi nhân bên Đầm Én - Nha Trang

Lê Đức Dương 07:24 12/12/2025

Khởi nguồn từ thành Bình Định bên dòng sông Côn, lớn lên trong tình thơ của bốn thi nhân mà người đời gọi là “tứ linh”, với danh vọng thật ấn tượng “Bàn Thành tứ hữu”: Hàn Mặc Tử (long), Chế Lan Viên (phượng), Yến Lan (lân) và Quách Tấn (quy). Họ đã gắn bó với nhau bằng tất cả tấm lòng trong sáng, lãng mạn từ thuở hoa niên cho đến khi bay về trời như cánh mai mùa xuân.

Trong đó có những ngày tháng bên Đầm Én - khu vực Chợ Đầm Nha Trang bây giờ, ở vườn mận “Mùa cổ điển” của thi sĩ đại ca Quách Tấn, họ đã sống với nhau những ngày thật đáng nhớ.

Năm 1937, Quách Tấn từ Đà Lạt về Nha Trang và ở trong ngôi nhà rất duyên, có tên 12 Bến Chợ. Ngôi nhà nằm bên bờ đầm nước Cù Đàm (còn được gọi là Đầm Én) vì mỗi độ xuân về, chim én lại bay ngát trời. Người ta thường nghĩ Quách Tấn là thi nhân nổi tiếng nên khi chọn nhà đã đặt tên theo chất thơ của mình (Hoài Thanh gọi ông là “sứ giả của Đường thi”), nhưng thực tế không phải vậy. Con đường Bến Chợ là một trong những con đường cổ nhất của Nha Trang, chạy men theo đầm nước. Người Pháp cũng gọi con đường này là Quai du Marché (nghĩa là Bến Chợ). Mười hai bến chợ tương ứng với mười hai bến quanh đầm: Cá, Đình, Lồ ô, Gỗ, Cỏ, Dưa, Mía, Gốm, Than, Củi, Chiếu và Hà Ra. Vì đầm thông thương với dòng sông Cái, nên nơi đây từng là thương cảng dân dã của người Nha Trang và thành cổ Diên Khánh.

nha-tho-che-lan-vien.jpg
Nhà thơ Chế Lan Viên

Chỉ có điều, những ngẫu nhiên thật kỳ lạ lại trùng hợp với Quách Tấn. Đầm Cù Đàm có huyền tích về con rùa, mà trong nhóm “tứ hữu” Quách Tấn lại mang danh Quy. Còn ngôi nhà 12 Bến Chợ trước đó là một căn biệt thự của một vị đốc học từng là người “trải chiếu đãi khách hiền”, tiếp đón nhiều trí sĩ danh tiếng đương thời như Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng... khi các vị ghé thăm Nha Trang.

Trong nhóm tứ hữu, Quách Tấn là người lớn tuổi nhất (sinh năm 1910, thọ nhất), tiếp đến là Hàn Mặc Tử (1912), Yến Lan (1918) và Chế Lan Viên (1920). Hai người quê Bình Định là Quách Tấn và Yến Lan, còn Hàn Mặc Tử quê Quảng Bình và Chế Lan Viên sinh tại Quảng Trị. Cả bốn đều gắn bó, yêu thơ văn từ thời học Thành Chung (cấp II ngày nay) ở Bình Định.

nha-tho-han-mac-tu.jpg
Nhà thơ Hàn Mặc Tử

Vì sao nhóm lại có tên “Bàn Thành tứ hữu”? Theo lời kể của Quách Tấn và Yến Lan, bốn người bạn thường leo lên gác lầu cổng thành Bình Định (nay là chợ Bình Định, huyện An Nhơn) ngồi ngâm nga thơ phú. “Bàn Thành” là vùng An Nhơn có thành Đồ Bàn (còn gọi là thành Hoàng Đế) - nơi vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc từng đóng đô, xa xưa hơn là thành cổ của vương quốc Chăm Pa. Thực ra, tên nhóm không phải do bốn “tiểu thi nhân” tự đặt mà do một người bạn văn là Trần Thống ngưỡng mộ đặt rồi lan truyền trong làng thơ Bình Định. Hơi tiếc rằng cách thành Bình Định không xa về phía đông, bên bờ sông nhỏ làng Gò Bồi (Tuy Phước), khi ấy có một thiên tài thơ là Xuân Diệu (sinh năm 1916), nhưng vì duyên chưa gặp nên không kết nối.

Cũng như những con thuyền và cánh én, nhiều bạn hữu của Quách Tấn thường ghé 12 Bến Chợ chơi. Riêng với Chế Lan Viên và Yến Lan, Quách Tấn dành một tình yêu thương rất đặc biệt, đúng nghĩa “tình thơ cổ điển”. Đây là thời điểm Quách Tấn có điều kiện kinh tế để giúp đỡ bạn. Hằng năm, cứ dịp hè Chế và Yến lại vào ở với Quách Tấn cho đến đầu thu mới trở về Bình Định dạy học. Ở Nha Trang, ba anh em thường cùng du ngoạn thành cổ Diên Khánh, vịnh Cam Ranh. Có khi họ theo Chế Lan Viên đi tận miền Chăm Phan Rang để thỏa chí tang bồng. Ngôi nhà 12 Bến Chợ lại ở vị trí hữu tình, nhìn ra đầm nước, xa xa là Tháp Bà. Yến Lan từng đùa: “Chế đi đâu cũng có Tháp Chàm theo, mà vẫn sầu!”. Rồi cả nhóm lên thuyền đi ngược sông, uống rượu ngắm trăng, chẳng khác gì thuở gác chân trên vọng lâu thành Bình Định năm xưa.

nha-tho-quach-tan.jpg
Nhà thơ Quách Tấn

Rất tiếc cho nhị đệ Hàn Mặc Tử. Khi Quách Tấn an cư lạc nghiệp thì Hàn lại ở vào giai đoạn bi thương nhất đời mình tại bãi biển vắng Quy Hòa, phía bắc Gành Ráng (Quy Nhơn). Chỉ còn bệnh nhân Nguyễn Trọng Trí (tên thật của Hàn) vật vã đau đớn khi trăng lên:

“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút...”
Khác hẳn những năm tháng êm đềm thuở trước:
“Một chiều xanh, một chiều xanh huyền hoặc
Sáng bao la vây lút cõi thiên không.”

Những năm đó, Quách Tấn vẫn dành một phần lương công chức gửi thăm nuôi bạn và một đại huynh khác là Tản Đà tiên sinh, vì những năm cuối đời, cụ Tản Đà rất vất vả (mất năm 1939). Có lẽ việc lớn nhất Quách Tấn làm cho Hàn Mặc Tử là sau này ông đứng ra cải táng mộ Hàn từ Quy Hòa ra lưng đồi Gành Ráng, vị trí đẹp nhất Quy Nhơn. Từ đó, Hàn Mặc Tử trở thành một trong những thi nhân được an nghỉ nơi có cảnh quan phong thủy đẹp bậc nhất Việt Nam, nay là danh thắng du lịch. Ở nơi ấy, như thể Hàn được “thả hồn” vào trời đất:

“Ngửa mặt trông cao, cầu nguyện trắng không gian
Để vừa dâng, vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.”

Cùng với đó, Quách Tấn đã quản lý toàn bộ di cảo của Hàn để sau này Chế Lan Viên làm tuyển tập đưa Hàn lên trời xanh, chói lọi trong làng thi ca Việt.

Với Quách Tấn, chính Chế Lan Viên đã hết lời ca tụng tập thơ “Mùa cổ điển” của bạn, dù “chưa làm thơ Đường” (chữ của Hoài Thanh), trong bối cảnh những tranh luận gay gắt về thơ mới và thơ cũ. “Mùa cổ điển” đánh dấu một thời đại thi ca (cũ). Sau ngày giải phóng, người đầu tiên Chế Lan Viên và Yến Lan tìm đến là Quách Tấn, mặc dù thời thế đã nhiều đổi thay. Đầm Én không còn, bị lấp để xây Chợ Đầm. Ngôi nhà 12 Bến Chợ cũng chìm khuất giữa sự ồn ào, chật hẹp của khu chợ. Trong những giờ phút khó khăn ấy, Quách Tấn luôn được hai người bạn bên cạnh động viên để tiếp tục “mùa cổ điển”.
Trước đó, vì đất nước chưa thống nhất, hễ có cuốn thơ nào in ra, Quách Tấn đều gửi cho Chế và Yến qua đường vòng sang Pháp rồi từ Pháp chuyển về Hà Nội. Qua radio, ông thỉnh thoảng vẫn nghe thơ của hai người bạn. Ngày cuối cùng của Chế Lan Viên trong bệnh viện có vòng tay thân ái của Quách Tấn - người lặn lội từ Nha Trang vào thăm.

Trở lại mảnh vườn 12 Bến Chợ: khi Hàn Mặc Tử mất, Quách Tấn trồng một cây mận có ba cành vươn ra ba hướng. Khi Chế Lan Viên và Yến Lan đến chơi, ngồi uống trà, Quách Tấn chỉ vào cây mận và nói đùa: “Đó là hiện thân của ba đứa chúng mình đó”.

Qua mấy chục năm, cây mận vẫn tươi tốt, sai quả. Bỗng một ngày, một cành héo. Vài ngày sau, tin Chế Lan Viên mất. Khi Quách Tấn mất, một trong hai cành còn lại gãy. Đến khi Yến Lan qua đời, cành cuối cùng cũng héo khô.

Trên bàn thờ Quách Tấn hiện còn một khúc gỗ mận, tượng trưng cho tình bạn trong trẻo như hoa mận, hồng tươi như màu quả dưới tán lá xanh.

Ngõ trúc và vườn mai đã xa mờ, nhưng bầu trời xuân vẫn xanh thẳm./.

Lê Đức Dương