Tác giả - tác phẩm

“Giấc cỏ” - nỗi niềm chung cõi nhân gian

Nhà văn Phạm Thanh Khương 07:23 28/11/2025

Nhắc đến Giang Đăng, nhiều người thường nghĩ ngay đến một giọng thơ tình giàu cảm xúc. Tôi cũng đôi lần nghe nhắc tên chị trong Câu lạc bộ Thơ Đất Việt hay bắt gặp trên pano Ngày thơ Nguyên tiêu. Nhưng chỉ đến khi cầm trên tay “Nhặt mùa” và “Gỡ từ ngực cỏ”, tôi mới nhận ra: vẻ đẹp của thơ Giang Đăng không chỉ nằm ở sự mượt mà của ngôn từ mà còn ở chiều sâu triết luận, ở tâm thế, cảm xúc và những trải nghiệm đa tầng trước đời sống.

anh-bia-sach.jpg

Khi Hội Nhà văn Hà Nội thành lập Chi hội Nhà văn quận Long Biên, tôi gặp Giang Đăng trong cùng chi hội và được đọc “Giấc cỏ” của chị. Đến lúc ấy tôi mới biết Giang Đăng tên thật là Nguyễn Thị Thu Hương, quê ở Thanh Miện, Hải Dương - một miền quê sông dài đồng rộng, có đảo cò Chi Lăng, có bánh tráng, chả ốc, mang dáng dấp điển hình của nông thôn Việt Nam. Thế nhưng, khác với vẻ mộc mạc, thanh bình của quê hương, “Giấc cỏ” lại mở ra một ngôn ngữ riêng, sắc thái riêng, cảm xúc riêng, rất Giang Đăng. Tập thơ là nỗi niềm nhân gian được chị khéo léo gửi gắm trong từng con chữ, vừa tình, vừa nhuyễn, vừa sâu sắc. Và ngay cả khi viết về tình yêu, Giang Đăng cũng không nhìn nó như những người khác, chỉ thấy toàn màu hồng, hương hoa hay vị ngọt của socola.

“Giấc cỏ” ăm ắp những nỗi niềm, trăn trở, day dứt và khát khao về cõi nhân gian. Nó không chỉ có vị ngọt, vị bùi và hương thơm mà còn chất chứa cả chua chát, đắng đót. Nó là những chiêm nghiệm về thói đời, về mất mát, hy sinh, về những gì tưởng chừng chỉ đẹp đẽ, ngọt ngào nhưng lại để lại vết đau trong lòng:

Tưởng giếng khơi sâu, em nối sợi gầu dài
Ai ngờ giếng cạn, tiếc hoài sợi dây
(Ca dao)

“Giấc cỏ” là góc nhìn, là quá trình Giang Đăng tự lý giải cuộc sống bằng thứ “mật ngôn”, ngôn ngữ của “ái thi”, nhớ đấy, thương đấy mà cũng buồn đấy, đau đấy. Một tâm thế “Ái biệt ly khổ” trong quan niệm bát khổ của nhà Phật (sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tăng hội khổ, ngũ ấm thạnh khổ).
Trong cuộc sống đôi khi vẫn phải làm “phép thử” để hiểu lòng người và tự biết lòng mình, biết đâu là vàng thau, đâu là trong đục, nông sâu. Nhưng có một điều cần thừa nhận, ẩn sau mỗi “phép thử” chính là dấu hiệu của của niềm tin chưa trọn vẹn, một vết rạn của niềm tin. Biết thế nhưng Giang Đăng vẫn tự hỏi: “Gừng cay hay là muối mặn” (Phép thử). Câu hỏi tưởng dễ mà thật khó trả lời, chỉ có thời gian mới có thể giải đáp. Có lẽ thế, trong tình yêu, trong cuộc sống, để đủ “niềm tin” cho sự yên bình, đôi khi ta cũng cần tự dối lòng, như sự an ủi chính mình:

Ta cần lời gian dối
Không mất công tìm thứ chẳng của mình...
(Noel)

Và cái sự cần mẫn đi tìm, tự an ủi mình trong ngàn vạn điều gian dối ấy là để mong muốn được:

Giữa ngàn gian trá
Đóa hoa vàng khô khẳng lưu hương
(Gió)

Ở cái tuổi mà người ta thường chỉ mong sự bình yên, Giang Đăng vẫn chọn bước vào thơ bằng những nỗi niềm nhân thế. Bởi trong cuộc sống, trong tình yêu, “cầm được thì nhớ vấn vương/ cầm tủi đi đường vẫn nhớ đến nhau” (Hát thầm, dân ca Hà Nam). Thế nên “Giấc cỏ”, dẫu có buồn, có đau, có đắng đót, Giang Đăng vẫn để bạn đọc nhận thấy:

Còn nguyên một nụ dùng dằng
Nở vào góa bụa đêm đằng đẵng đêm”
(Ngày và đêm)

Cái nụ dùng dằng ấy cứ neo lại, để đằng đẵng hằng đêm lại nhớ, lại thổn thức về một điều không thuộc về mình, như nỗi “góa bụa” trong giấc mơ.

anh-phu-1.jpg
anh-phu-2.jpg

“Giấc cỏ” mở ra một góc nhìn, một sự cảm nhận và khám phá chiều sâu tâm hồn con người. Để có thể lý giải được “nhịp tim hư” trong “Giấc cỏ”, Giang Đăng đã chỉ ra cái “lỗi” của nhịp tim ấy, bởi:

Đập thảng thốt trong
chiều nhộn nhạo
Vít thanh âm thành phố
lên đồng…
(Ngẫu hứng hai phút)

Rồi từ đó chút liêng biêng, chút mơ hồ:
Nắng cười lấp lánh
Em tin hoa nở phía tay mình!
(Mong manh)

Mong lắm, muốn lắm cái mà chỉ đủ để làm ngọn gió thoáng qua, đủ để hương vừa độ:

Xanh chiều nhon nhón nốt hương
Mị mê vừa đủ để thương lối về!
(Lối thu về)

Và rồi, để khi nhận ra: “Tôi là tôi/ Tôi lại chẳng là mình” nên mới nên nông nỗi “lạc vào vụng dại” (Gió vào đêm). Và có lẽ, khi đã tỉnh “cơn say nắng”, “mưa bóng mây”, cái đích thực nhận ra đó chính là:

Ta nhận ra nhau giữa vàng thau thật giả
Giữa tiếng cười vui và nước mắt rất đời
Anh đang diễn hay chính em đang diễn?
Vị trí nào cũng thế cả thôi
(Không lời)

Lời tự thú với chính mình, với những thổn thức của chính mình. Cái nghi nghi hoặc hoặc lẫn trong cái hư hư thực thực, cái sân khấu cuộc đời, tất cả đều diễn như Môlière từng nói: Cuộc đời là sân khấu. Mỗi con người là một diễn viên. Ta diễn với người hay người diễn với ta? Biết thế, nhưng có lẽ, đấy lại là hương vị làm nên chính cuộc đời như vốn có của nó. Tự thú là thế, tự nhận diện khuôn mặt cuộc đời là thế, nhưng “Giấc cỏ” vẫn:

Đừng khuyết cho dù thiếu
Hãy cứ thơm hết mình!
(Nói với con)

Trái tim phải lớn lắm, niềm thương phải lớn lắm, sự bao dung phải lớn lắm mới có thể tha thứ, có được góc nhìn và tâm thế như thế. Ôi! Cuộc đời, đơn giản, dễ thốt thành lời mà hiểu nó, làm được mới khó lắm thay.

Khi đọc “Giấc cỏ”, tôi cố tìm cho mình lời lý giải. Tại sao trong tập thơ này, cuộc sống, tình yêu, thứ hương vị ngọt ngào, cái sắc màu lấp lánh với bao người nhưng ở Giang Đăng lại có góc nhìn, sự cảm nhận ấy. Có phải từ chính những trải nghiệm, từ chính những điều “thảng như tiếng hạc” để lại trong trái tim vốn nhạy cảm, một trái tim đa sầu, đa cảm, dễ tổn thương hay từ chính “mặt sau” của những lấp lánh hào quang được phủ bên ngoài tấm áo cánh sặc sỡ có tên cuộc sống, tình yêu buộc chị phải thốt lên lời. Giả định thì nhiều nhưng vượt lên tất cả vẫn chỉ là cái thực hiện hữu, trần trụi như quy luật muôn đời:

Cỏ mây
Trăng nước
Lá hoa
Là ta - vai chính - đàn bà
Nắng mưa!
(Em về cài lại cúc thơ)

Có lẽ lời lý giải đơn giản nhất chính là vậy - “là đàn bà nắng mưa”. Cái căn cơ, cốt lõi nhất của chính bản thể “đàn bà nắng mưa” mà thôi.

Vậy điều gì đã đưa “Giấc cỏ” có góc nhìn như thế? Vẫn biết, mỗi người viết là một cá tính, một bản ngã không trùng lặp, tạo nên dấu ấn và chỗ đứng của họ trong thi đàn. Tôi chợt nhớ đến Ellen J. Barrier (1852 - 1945) - nhà cải cách, giáo viên và nhà hoạt động xã hội người Mỹ, người đã đấu tranh vì quyền lợi của những người da màu, từng nói: “Một người phụ nữ mạnh mẽ sẽ tự xây dựng thế giới của riêng mình. Cô ấy là một người đủ thông minh để biết rằng điều này sẽ hấp dẫn người đàn ông xứng đáng để cô ấy sẵn sàng chia sẻ thành tựu đó”. Ở Giang Đăng, “cái nắng mưa đàn bà” đủ tỉnh, đủ say, đủ sắc sảo để nhận ra thế giới của chính mình trong con chữ, trong thi ca và trong cuộc sống.

“Giấc cỏ” không mượn câu chữ làm dáng, cũng không làm mới bằng những ngôn ngữ “thể nghiệm” như nhiều người hiện nay đang làm. Câu chữ trong “Giấc cỏ” rất đời, rất gần gũi như ta nghe đâu đây mà cũng rất xa xôi, thanh mà sắc, nhẹ mà lắng, dung dị mà ẩn chứa bao điều về khao khát của người. Đây là tập thơ giàu cảm xúc, viết bằng cảm xúc thật. Với Giang Đăng, thơ chi đến khi cảm xúc thật đầy; khi ấy, câu chữ tự nhiên đến, tự cất thành lời để gửi gắm, để trò chuyện, tâm sự với những đồng điệu của nhịp sống, hơi thở cõi người. Đấy chính là cái đã làm nên “Giấc cỏ”, để “Giấc cỏ” neo lại trong lòng bạn đọc. Từ “Giấc cỏ”, ta hiểu hơn về “vầng trán”, “trái tim” và tâm hồn của một nửa thế giới nhìn về cuộc sống, về tình yêu, để nâng niu, để trân trọng, để sẻ chia như chính câu thơ từ đề Giang Đăng viết cho tập thơ của mình:

Và em đến thản nhiên xanh mắt cỏ
Nêm ngọt mùa đồng vọng khúc hoan ca!

Chỉ thế thôi, “Giấc cỏ” đã đủ đem đến cho bạn đọc một nỗi nhớ trong từng câu chữ, từng trang thơ; đủ để nhận rõ hơn khuôn mặt đời, khuôn mặt người chung cõi nhân gian; đủ để nhận ra những thổn thức của cả niềm vui và nỗi buồn nhân thế...

Nhà văn Phạm Thanh Khương