Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
1. Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan. Tuy không đồ sộ về số lượng nhưng những áng văn đó đủ để phô diễn vị thế của đất Kinh kỳ (“Nhất kinh kỳ nhì phố Hiến”), của “Thăng Long phi chiến địa”. Đất thánh Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội vào văn chương không đơn giản chỉ là một quang cảnh (không gian - thời gian nghệ thuật) mà còn là một hình tượng nhân vật văn học hiểu theo nghĩa rộng của từ ngữ. Đọc lại những áng văn cổ điển ấy, độc giả hôm nay càng ngày càng thấm thía về truyền thống văn hiến của dân tộc Việt nói chung, Hà Nội nói riêng; càng nhận thức sâu sắc động thái tư tưởng - tình cảm giữ gìn ký ức lương thiện giúp chống lại sự lãng quên lịch sử và con người. Quá khứ luôn sống trong hiện tại, vì thế nó cũng góp vào kiến tạo tương lai.




.jpg)
2. Bước sang thế kỷ XX, Hà Nội tiếp tục là nguồn cảm hứng với các nhà văn nhiều thế hệ. Thủ đô Hà Nội được cảm nhận và tôn vinh bằng ngôn từ văn chương từ góc độ văn hóa dân tộc. Nét mới mẻ của các tác phẩm về Hà Nội trong sử văn hiện đại, đó chính là lòng tự hào có một không hai của người Việt Nam với Thủ đô của mình. Nhà văn Thạch Lam từng viết trong “Hà Nội băm sáu phố phường” (1943): “Người Pháp có Paris, người Anh có London, người Tàu có Thượng Hải. Trong các sách vở, trên các báo chí họ nói đến thành phố của họ một cách thiết tha, mến yêu... Ta phải nghe người Pháp nói đến Paris, người ở Paris mới hiểu được sự yêu quý ấy đến bậc nào. Chúng ta có Hà Nội, một thành phố có nhiều vẻ đẹp, vì Hà Nội đẹp thật (chúng ta chỉ còn tìm những vẻ đẹp ấy ra), và cũng vì chúng ta yêu mến - yêu mến Hà Nội với tâm hồn người Hà Nội, cũng như người Parisien chính hiệu yêu mến Paris... Trong những cuộc phiếm du, phiếm du ngoài các phố Hà Nội là một cái thú vô song chỉ có người Hà Nội có - ta nên chú ý đến những nét đổi thay của thành phố, nên nhận xét những vẻ đẹp cũng như vẻ xấu của phố phường, thân mật với những phố vui hay những cảnh lầm than, với những người Hà Nội cũng như ta. Hà Nội có một sức quyến rũ đối với các người ở nơi khác”. Thẩm sâu vào vẻ đẹp muôn màu của Hà Nội, độc giả có thể tiếp nhận rộng rãi qua “Chuyện Hà Nội” (1944) của Vũ Ngọc Phan, “Miếng ngon Hà Nội” (1960) của Vũ Bằng, “Chuyện cũ Hà Nội” (1980) của Tô Hoài...
3. Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, nhà văn Nguyễn Tuân xuất bản tập ký nổi tiếng “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” (Hội Văn nghệ Hà Nội, 1972). Mười sáu bài tùy bút là 16 bức ký họa tài hoa về Hà Nội những năm đánh Mỹ. Chữ “ta” trong nhan đề tác phẩm không phải là cách viết phóng bút, tự nhiên như một thứ “khẩu văn”. Nó mang một thái độ trang trọng như khi ta thường nói “dân tộc ta”, “nhân dân ta”, “đất nước ta”. Ở đây, chữ “ta” thể hiện lòng tự hào chính đáng của người dân một nước tự do, độc lập. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, đọc lại áng văn tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân, chúng ta vẫn cảm nhận được cái nhã thú văn chương mà người nghệ sĩ ngôn từ đã tinh chế trong câu chữ để dâng tặng độc giả. Tác phẩm đọng lại trong ký ức người đọc là bởi cái “dân khí Việt” được hun đúc, nâng cao và tỏa sáng.
Một phong cách người Hà Nội trong chiến tranh hiện lên rõ nét: “Báo động thì vào hầm, tàu nó láng vào trời mình thì tất cả cùng bắn, người nào việc nấy, việc xong thì uống bia quanh hồ, ăn bánh tôm cũng quanh hồ”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, văn học nổi bật với chủ đề “tình yêu và báo động”, như nhan đề một bài thơ của thi sĩ Bằng Việt:
Anh nắm bàn tay em khi nói đến tương lai
Thành phố đang cơn mưa ướt
Đẫm trong tiếng hát
Chúng ta đi giữa bạn bè
Mỉm cười
Cơn báo động tan rồi
Anh muốn nói một câu gì dữ dội
Nhưng không thể tìm ra lời để nói
Chúng ta đi giữa bạn bè mỉm cười
Cơn báo động tan rồi
Cảm động quá, khi mùa thu lại đến
Anh nhớ phút ngồi bên nhau trực chiến
Anh nghe thời gian trong mạch đập tay em
Mạch đập bình yên
(Tình yêu và báo động, 1967).
4. Trong số các tác phẩm văn chương thành công về Hà Nội gần đây, tập truyện ngắn chọn lọc “Một đêm mưa trong thành phố” (Nxb Hà Nội, 2020) là một ấn phẩm độc đáo, đem lại một cách cảm thụ Hà Nội mới từ một cách viết mới mẻ về Thủ đô nghìn năm văn hiến - văn hóa - văn vật -văn chương - văn nhân. Tác phẩm này chính là cơ hội để người đọc tìm thấy những sắc màu thẩm mỹ mới của văn chương về Hà Nội trong bối cảnh mới - thời của thị trường, kỹ trị, của không gian mạng, kinh tế số. Nếu đọc kỹ và ngẫm sâu, độc giả sẽ ngộ ra một thực tế khi người đọc trải nghiệm cảm xúc về mảnh đất Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội vừa kết tinh, hội tụ, lan tỏa những khía cạnh độc đáo của Việt Nam. Người đọc sẽ thấy một Hà Nội vốn nề nếp, ổn định cả về không gian và thời gian sống hàng nghìn năm nay chứa chất một nhịp sống mới. Có thể kể tới“Mèo trong thành phố lạ” của Tô Hải Vân, “Sau chớp là bão giông” của Y Ban, “Thang dây” của Nguyễn Thị Thu Huệ, “Những dự định của nàng vào thứ bảy tuần này” của Nguyễn Ngọc Thuần. Dường như, văn xuôi hiện đại vượt ra ngoài phên giậu của cái gọi là tính hình tượng cố hữu, truyền thống để chứa chất thêm tính nhịp điệu, tính suy nghiệm, tính biểu hiện trên tinh thần của quan điểm hiện sinh chủ nghĩa. Nhưng dẫu có biến đổi mau lẹ đến đâu do nhiều tác nhân ngoại cảnh và khách quan thì Hà Nội trước sau vẫn trầm mặc, đằm sâu, cổ kính, khoan thai trong nếp nghĩ, nếp làm, trong lời ăn tiếng nói, trong trang phục, trong ẩm thực được nâng lên văn hóa. Đó là vẻ đẹp truyền thống được thể hiện trong các truyện: “Tình buồn” của Tô Hoài, “Đèn không tắt sáng” của Ma Văn Kháng, “Khắc dấu mạn thuyền” của Bảo Ninh, “Cơn mưa cuối mùa” của Lê Minh Khuê, “Lúa hát” của Võ Thị Xuân Hà,... Có tác giả viết và kể những câu chuyện tưởng chừng xa vời và không liên quan tới Hà Nội nhưng ẩn sâu trong đó vẫn phảng phất cái khí vị và dây mơ rễ má với không gian - thời gian nơi người viết văn cất lên tiếng nói nghệ thuật mới mẻ của mình như đang góp bàn thế sự của Hà Nội ngày càng nhiều dư địa tinh thần. Đó là những truyện có vẻ nhẹ tựa lông hồng kiểu “Vốc nước trong lòng bàn tay” của Hồ Anh Thái, “Chuyện tình kể trong đêm mưa” của Nguyễn Huy Thiệp, “Giường đôi xóm Chùa” của Đoàn Lê. Dù ở góc độ nào, các nhà văn đều viết với tâm cảm “Dù đi bốn phương trời/ Lòng vẫn nhớ về Hà Nội”.
Giới nghiên cứu nhận định, không có đại tự sự, không có sử thi, chỉ có những trường hợp, những kiếp đoạn, những tình huống thường nhật đời sống của những con người bình thường, thậm chí đôi khi khuất lấp,... được nhà văn soi sáng dưới ánh sáng “cái đẹp là sự giản dị”. Qua kênh ngôn từ văn chương, người đọc cảm nhận được “Một đêm mưa trong thành phố” là “một tuyển tập ấn tượng mạnh mẽ thể hiện sự đa dạng của một số nhà văn đương đại quan trọng bậc nhất Việt Nam”, bởi vì “Dù là lần đầu tiên gặp gỡ hay hành trình trở lại, những câu chuyện này đều mời gọi người đọc đắm mình vào những khía cạnh độc đáo của Việt Nam”, và quan trọng hơn “Vừa hướng tới tương lai vừa đồng thời lưu tâm tới quá khứ”. Nói cách khác, đó là động hướng tinh thần “ôn cố tri tân” được biểu đạt một cách sâu đậm tình cảm và tầng cao trí tuệ thông qua nghệ thuật ngôn từ trong mỗi thiên truyện hay đáng đọc, đáng nhớ, đáng chia sẻ và lan tỏa./.