Lý luận - phê bình

Thơ ca về những người xả thân vì nghĩa lớn

Nhà thơ Phạm Đình Ân 08:54 15/07/2025

Nhân dân ta trải qua hàng nghìn năm chống chọi với thiên tai, giữ cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng trên hết, chiến tranh chống ngoại bang xâm lược hung tàn, dai dẳng là thử thách lớn nhất đối với Tổ quốc, dân tộc.

Nhiều người vì nghĩa lớn mà phải chịu thương tật nặng nề suốt đời, hơn thế nữa, phải hy sinh cả tính mạng, gây tổn hại tinh thần và vật chất đối với gia đình, người thân. Họ mãi mãi được vinh danh trong sử sách, trong tâm khảm người dân đương thời và hậu thế. Tuy nhiên, văn chương thời trung đại chỉ nghiêng nhiều về phía khẳng định, đề cao công lao, sự nghiệp của họ khi họ còn khỏe, còn “hành đạo”. Thơ văn nói sâu về thương tật, về cái chết của họ chưa trở thành một hướng tiếp cận kiểu như đề tài thương binh liệt sĩ (TBLS) hiện nay.

untitled-2.jpg

Từ đầu thế kỷ XX, khái niệm “Thương binh Liệt sĩ” dần hình thành rõ nét, để rồi từ đó, đề tài TBLS trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), tiếp theo là cuộc chống Mỹ (1955 - 1975) được nhiều tác giả tham gia. Thơ như nỗi niềm tiếc nhớ, ghi ơn, tri ân từ một góc nhìn, một lát cắt, một khoảnh khắc về hiện thực đời sống, cho nên nội dung đề cập TBLS tập trung hơn văn xuôi. Độc giả dễ tìm ra những bài thơ tiêu biểu ở thời đoạn 1945 - 1975: “Lượm”, “Hãy nhớ lấy lời tôi”, “Người con gái Việt Nam” (Tố Hữu), “Núi Đôi” (Vũ Cao), “Mồ anh hoa nở” (Thanh Hải), “Viếng bạn” (Hoàng Lộc), “Quê hương” (Giang Nam), “Tiếng hát Quốc ca” (Huỳnh Văn Nghệ), “Nhớ máu” (Trần Mai Ninh), “Tôi khiêng anh bạn” (Quản Tập), “Viếng mồ liệt sĩ” (Hồ Tùng Mậu), “Bài ca chim Chơ Rao” (Thu Bồn), “Hoa Chanh” (Nguyễn Bao), “Một bàn chân” (Lữ Giang), “Ngã ba Đồng Lộc” (Huy Cận), “Khoảng trời hố bom” (Lâm Thị Mỹ Dạ), “Nấm mộ và cây trầm”, “Màu hoa đỏ” (Nguyễn Đức Mậu), “Sống chết quang vinh” (Nguyễn Trọng Oánh), “Sự hy sinh của một tiểu đội” (Xuân Hoàng)...

Sau 1975, do hoạt động hướng về nguồn cội, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa sôi nổi khắp mọi miền đất nước và từ mỗi gia đình, đồng thời với việc chăm sóc thương binh, đi tìm mộ liệt sĩ, cộng với niềm tin tâm linh nổi trội mà nhiều nhà văn rất chú ý đến sáng tác về đề tài TBLS. Từ trung ương đến địa phương, ngoài các hội văn học, nghệ thuật thì một số bộ, ban, ngành… đã tổ chức cuộc vận động hoặc cuộc thi sáng tác về đề tài TBLS. Các tác giả hầu hết là người đã và đang tại ngũ hoặc từng trải qua chiến tranh. Có nhà thơ viết về liệt sĩ, sau đó lại là liệt sĩ, như Lê Anh Xuân với bài thơ nổi tiếng “Dáng đứng Việt Nam”. (Cũng có những bài viết về nhà thơ, nhà văn liệt sĩ, trong đó có liệt sĩ Lê Anh Xuân, đó là bài “Ý nghĩ bất chợt trong nghĩa trang chiều” của Diệp Minh Tuyền). Nếu khảo sát trên ấn phẩm cả nước, có thể thấy đến hàng nghìn bài thơ và nhiều trường ca hoặc truyện ngắn chỉ viết về TBLS. Nói riêng về thơ đã in sách, báo trung ương mà độc giả đã biết hoặc rất dễ tìm đọc, thì có thể tạm kể một số tác giả và tác phẩm sau: Thanh Quế với “Trưa 30-4-1975”, Hữu Thỉnh với “Phan Thiết có anh tôi”, Trần Ninh Hồ với “Viếng chồng”, Nguyễn Thái Sơn với “Thăm mộ chiều cuối năm” và “Ảnh thờ”, Ngô Thế Oanh với “Vô danh”, Nguyễn Hữu Quý với “Khát vọng Trường Sơn”, “Cơn mưa rừng chiều nay” và “Chuyện đi tìm mộ liệt sĩ”, Vũ Bình Lục với “Đám cưới một linh hồn” và “Vuốt mắt cho cánh rừng”, Lê Văn Vọng với “Viếng mộ”, Mai Nam Thắng với “Hoa loa kèn”, “Lau trắng Điện Biên”, “Rau tập tàng”, Lê Đình Cánh với “Gió đất”, “Xem nhờ ti-vi”, Dương Thuấn với “Một ngày một đêm”, Vương Cường với “Cõng bạn đi chơi”, Nguyễn Linh Khiếu với “Chiều thanh tước”, Đinh Phạm Thái với “Cái roi ngày ấy”, Trần Quang Nhật với “Mừng vợ bạn lấy chồng”. Những sự kiện lớn gây tổn thất nặng nề ở các địa danh lịch sử Đồng Lộc, Truông Bồn, Thành cổ Quảng Trị… đã lay động sâu sắc tâm can nhiều tác giả, khiến họ cho ra đời những bài thơ, trường ca nói đến TBLS có giá trị cao về tư tưởng và thẩm mỹ. Ngoài ra, hình ảnh TBLS kiên cường, quả cảm ở các mặt trận khác như biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam hay trên lãnh thổ nước bạn Lào và biển đảo cũng được tái hiện một cách chân thực và xúc động trên các trang thơ.

Tác giả Nguyễn Hà Huy đã rất đúng khi cho rằng “có một tượng đài Đồng Lộc trong thơ” (Tạp chí Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh, số 7-2018). Viết sớm nhất về Đồng Lộc là Huy Cận, viết hay nhất sau này là Yến Thanh với bài “Cúc ơi”, Vương Trọng với bài “Lời thỉnh cầu ở Ngã ba Đồng Lộc”, Nguyễn Trọng Tạo với trường ca “Con đường của những vì sao”. Và hàng trăm thi phẩm khác. “Gặp lại các em” của Nguyễn Đình Chiến đăng trên báo Văn nghệ khoảng đầu những năm 80 thế kỷ trước là một bài thơ thuộc loại xuất sắc viết về sự hy sinh của lính trẻ ở mặt trận biên giới phía Bắc. Hình ảnh mộ gió xuất nhiều trong những thi phẩm nói về liệt sĩ không có mộ ở ngoài khơi biển đảo Tổ quốc. Bài thơ “Mộ gió” của Trịnh Công Lộc là một trong những bài thơ thuộc mô típ này được độc giả chú ý.

Số lượng thi phẩm về thương binh không nhiều nhưng có những bài đã ghi dấu ấn vào lịch sử thơ ca hiện đại như: “Người con gái Việt Nam” (Tố Hữu), “Tiếng hát Quốc ca” (Huỳnh Văn Nghệ), “Hoa chanh” (Nguyễn Bao)… Hình tượng người thương binh còn có trong những trường ca viết về chiến tranh. Do thế mạnh của thể loại ở một góc độ nhất định thì truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, hồi ký, tản văn… đã viết nhiều về cựu chiến binh - thương binh, bù cho thơ một cách vừa vô tình vừa hữu ý.

Bên cạnh những bài thơ khai thác hình tượng mang tính biểu tượng và khái quát như núi Vọng Phu, nghĩa trang, liệt sĩ vô danh, hành trình tìm mộ hay các địa danh linh thiêng, còn có nhiều sáng tác đi vào những khía cạnh riêng tư, sâu lắng về gia đình và hạnh phúc. Hoàn cảnh hy sinh của mỗi liệt sĩ thường rất khác nhau, thi thể gửi lại cũng không ai giống ai. Vì thế, thơ viết về các anh, các chị cũng muôn hình muôn vẻ. Với liệt sĩ, người tưởng nhớ họ không chỉ là bố mẹ, vợ chồng, con cháu, mà còn là người yêu, đồng đội, bạn bè. Mỗi người sống mang một số phận riêng, nên cũng có cảm xúc riêng trong nỗi đau chung, nhất là khi đối diện với hài cốt liệt sĩ hoặc thưa chuyện với linh hồn họ. Từ đó, những tứ thơ lạ, những bài thơ hay đã ra đời. Chẳng hạn như bài thơ “Cõng bạn đi chơi” thuật lại cảnh một bạn đồng ngũ cõng liệt sĩ về quê gặp mẹ và vợ. Bài thơ như một giấc mơ đầy ám ảnh tâm linh. Bài thơ “Mừng vợ bạn lấy chồng” tạo được tứ thơ mới về liệt sĩ với cách nhìn đầy nhân ái. Bài “Cái roi ngày ấy” cho độc giả biết cái roi kỷ niệm bố mẹ ngày trước đánh con nhằm răn đe nhẹ nhàng khi con lười học, mải chơi vẫn mãi mãi còn đây mà đứa con yêu dứt ruột đẻ ra ấy nay không còn nữa. (Trường Sơn một dải xanh rì/ Đất đen đất đỏ lấy gì chôn con). Hàng nghìn gia đình có liệt sĩ mà cảnh ngộ trùng hợp như trên, đọc bài thơ có lẽ đều không cầm được nước mắt.

Từ xúc cảm tưởng nhớ, tôn vinh, tri ân, đền đáp đến suy ngẫm là một bước tiến dài của thơ viết về TBLS. Sau 1975, nhất là sau Đổi mới, thơ viết về TBLS chuyển biến mạnh về chất lượng. Nhiều tác giả và tác phẩm hơn, nhiều trường ca hơn, cách viết sáng tạo hơn. Người viết về đau thương mất mát vì nghĩa lớn không còn bị dè dặt ngòi bút. Thơ đi sâu về nhiều ngả riêng tư, đậm chất tâm linh. Âm hưởng bi tráng mang tính cộng đồng xã hội bao trùm mọi trang thơ, cả ở những trường hợp nói đến cái nhỏ nhất thuộc về gia đình, số phận một con người cụ thể.

Từ xúc cảm tưởng nhớ, tôn vinh, tri ân đến suy ngẫm là một bước tiến dài của thơ viết về TBLS. Sau 1975, đặc biệt là từ sau Đổi mới, thơ về đề tài này chuyển biến mạnh về chất lượng: nhiều tác giả, nhiều tác phẩm, nhiều trường ca hơn, cách viết cũng sáng tạo hơn. Người viết không còn dè dặt khi nói về đau thương, mất mát vì nghĩa lớn. Thơ đi sâu vào những ngả riêng tư, đậm chất tâm linh. Âm hưởng bi tráng mang tính cộng đồng xã hội bao trùm lên trang viết.

Ánh mắt người liệt sĩ vẫn mãi dõi theo chúng ta - không chỉ một ai, mà là tất cả. Đó không chỉ là niềm đau hay sự căm hờn, mà trước hết và sau cùng là tình yêu sâu nặng với đồng bào, là lẽ sống cao đẹp, là lời nhắn gửi về trách nhiệm của người ở lại - trong đó có những người cầm bút đối với những người đã ngã xuống, với nhân dân, với Tổ quốc./.

Nhà thơ Phạm Đình Ân