Văn hóa – Di sản

Đức Thánh Đầm và tục kiêng kỵ ở làng Mễ Trì

Ngô Thị Hồng Giang 15:15 14/07/2025

Xưa kia, vùng đất Anh Sơn (sau là Mễ Trì, nay thuộc quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) chỉ là một làng nhỏ. Trong làng có ông lão chuyên nghề chài lưới, sống đơn độc, không có con cái.

Một hôm, ông mang lưới ra đồng đánh cá, suốt cả ngày hôm ấy chẳng đánh được gì ngoài một quả trứng to bằng quả trứng vịt. Ông mang trứng về cất vào trong chum thóc, hơn hai mươi ngày sau quả trứng nở ra một con rắn trắng, hình dáng giống rồng, đẹp lạ thường. Vừa sợ, vừa mừng nhưng ông vẫn giấu kín, nuôi trong chum, hằng ngày lấy các loại hoa (rang, súng, sen) và quả cho rắn ăn, yêu thương rắn như con.

den-tho-duc-thanh-dam.jpg
Cổng đền Đầm

Chừng được trăm ngày, rắn lớn dài rất nhanh, ông yêu quý lắm, đi đâu cũng giấu rắn mang theo. Một lần, đến chơi nhà nọ, chẳng may rắn thò đuôi ra và bị gãy một đoạn. Từ đó, ông để rắn ở nhà nhờ bà hàng xóm cũng ở một mình nuôi hộ. Một đêm, mưa to gió lớn, sấm sét dữ dội, rắn rời khỏi nhà bò thẳng ra đầm rồi biến mất. Ông đuổi theo nhưng chẳng thấy rắn đâu. Bà hàng xóm cũng đuổi theo ra giếng ở đầu cổng làng, sau đó đột ngột ngã bệnh rồi qua đời. Ông đi khắp đầm tìm gọi rắn rồi lại buồn bã trở về nhà, ngày đêm luyến tiếc. Hôm sau, ông lại ra đầm đánh cá, nhớ đến rắn liền khấn: “Gia cảnh ta nghèo lắm, hôm nay ta kéo cá ở đầm này, con phù hộ cho ta được nhiều cá”. Quả nhiên hôm ấy, ông kéo được nhiều cá thật. Rồi từ đó, mỗi lần ra đầm kéo cá, ông đều khấn rắn như thế.

Thấy ông đánh cá được nhiều, những người đánh cá quanh đấy đều lấy làm lạ, đến hỏi ông nguyên do. Ông thực thà kể lại đầu đuôi câu chuyện. Mọi người làm theo, quả nhiên họ kéo được nhiều cá thật. Từ đó, những người sinh sống bằng nghề chài lưới tại đây tin rằng, mỗi lần mắc vó, nếu thành tâm cầu khấn họ sẽ được thần phù trợ. Họ còn bàn nhau đến chỗ rắn xuất hiện trước đây, đào đất đắp thành một cái bệ rồi trồng cây xung quanh. Ngày ngày, những người đi đánh cá đều vào bệ đó thắp hương khấn cầu may. Dân gọi đó là miếu thờ Đức Thánh Đầm.

Miếu Đầm thờ rắn trở nên linh thiêng, mọi người gần xa cầu việc gì cũng được ứng nghiệm. Cũng từ đó, dân kiêng không nói câu gì có chữ “cộc” và cũng không nuôi các con vật có màu trắng như trâu, bò, lợn, gà... Một lần trời hạn hán, ao giếng cạn khô, người không có nước uống. Nhà vua đã lệnh cho các địa phương làm lễ đảo vũ cầu mưa tại hơn một trăm ngôi đền miếu trong cả nước nhưng không hiệu nghiệm. Lúc bấy giờ, triều đình nghe được tin bệ Đầm linh thiêng tại làng Anh Sơn, cầu sao được vậy, vua liền phái quân thần sửa lễ về bệ Đầm làm lễ cầu đảo. Chưa dứt tuần tế, trời đất âm u, mưa như đổ nước, lúa má xanh tươi trở lại. Nhớ công thần phù trợ, vua sai hàng tổng xây ngôi đình chung gần Miếu Đầm tại làng Anh Sơn, trên địa phận xứ Đồng Mồ để mãi mãi thờ cúng thần. Nhà vua ban sắc chỉ xuân thu nhị kỳ, triều thần về tế lễ. Nhưng lạ thay, khi đình vừa làm xong, vào khoảng nửa đêm một ngày gần đó, bỗng nhiên mưa gió nổi lên, sấm sét đùng đoàng. Đến sáng hôm sau dân làng đi làm đồng, chẳng thấy đình đâu, thậm chí một viên gạch ngói cũng chẳng còn.

Thời gian sau đó, lại gặp nắng hạn, dân xã phải tập trung trai tráng nạo vét các giếng để lấy nước ăn, vét bùn để thông thủy mạch. Khi nạo vét giếng ở gần miếu Đầm, mọi người phát hiện dấu tích một ngôi đình ở sâu dưới giếng. Một người con trai họ Ngô thấy có một chiếc chiêng đồng liền cầm lên đánh ba tiếng thì lăn ra chết ngay. Dân làng lo sợ, liền trả chiêng lại xuống giếng, chỉ chớp mắt, mưa gió tầm tã, nước trong giếng đã đầy ăm ắp. Từ đó về sau, mỗi lần nước giếng cạn, dân lại thấy có một cái đình ở dưới giếng. Và khi tát nước thau giếng thì người họ Ngô phải lánh xa.

Mọi người truyền tụng nhau rằng, nhà ở dưới giếng là nhà của Đức Thánh Đầm - rắn thần, là dòng dõi con vua Thủy Tề, bèn xây trên bờ giếng một bệ thờ. Khi gặp trời hạn hán, các cấp phủ huyện lệnh sức xuống cho quan xã cùng dân chúng sửa lễ mang ra bệ Đầm cầu đảo. Nếu cầu rồi mà không mưa thì lệnh cho tát giếng thì trời sẽ mưa to. Bên giếng là cổng gọi là Cổng Mộc, trên nóc cổng có gắn ba chữ “Anh Sơn môn” (cổng làng Anh Sơn). Dân làng lập bệ khắc chữ thờ bên bờ giếng: “Kỳ linh tỉnh/ Anh Sơn thiên cổ tỉnh/ Ngọc bệ vạn niên từ”.

Ngày nay, Miếu Đầm đã được tu bổ khang trang hơn, được Thành phố Hà Nội công nhận là Di tích lịch sử văn hóa năm 2014. Người dân địa phương vẫn phụng thờ hương nhang và tin tưởng vào sự phù hộ độ trì của vị Thánh thủy thần từ xưa truyền lại. Nhưng một số kiêng kỵ từ xa xưa như dân làng không nuôi con vật trắng vì sợ phạm húy ngài (Thần Rắn trắng) và không sử dụng từ “cộc” vì (Thần Rắn bị cộc đuôi), người họ Ngô không đến gần mỗi khi giếng Mộc cạn hoặc tát giếng thì đến nay chỉ còn lại trong những lời kể của các cụ cao niên trong làng. Tuy nhiên, một số kiêng kỵ cho những người tham gia lễ rước, cử hành lễ tế nơi Miếu Đầm vẫn được các cụ truyền nhau thực hành nghiêm ngặt. Như việc lựa chọn người làm chủ tế phải là người không có bụi (không vướng tang chế), gia đình văn hóa con cái có nếp có tẻ (có con trai và con gái), vợ chồng song toàn và được làng xóm yêu mến… đặc biệt những người trong đội tế cần trai giới, ăn uống kiêng khem cẩn trọng (ăn uống thanh đạm, không ăn các thứ như nội tạng, hành tỏi, mắm tôm...) một vài tuần trước khi tham gia tế, nếu không sẽ bị ngài quở trách. /.

.............................................
Bài viết sử dụng tư liệu trong Thần tích Mễ Trì (bản ghi chép lưu trữ tại Miếu Bản Thổ) và lời kể của các cụ cao niên phường Mễ Trì.

Ngô Thị Hồng Giang