Hoạt động hội

Tọa đàm “Văn học Hà Nội từ sau 1975”: Nhìn lại nửa thế kỷ sáng tác, định hướng cho bước chuyển tiếp theo

Linh Nguyễn 18/04/2025 20:28

Sáng ngày 18/4/2025, tại hội trường Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội (số 19 Hàng Buồm), Hội Nhà văn Hà Nội đã tổ chức tọa đàm với chủ đề: “Văn học Hà Nội từ sau năm 1975”. Buổi tọa đàm xoay quanh các vấn đề đậm chất học thuật nhưng không kém phần sôi nổi với phần giao lưu và những lời thơ, tiếng hát đầy cảm xúc của các hội viên.

Tổ chức nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, buổi tọa đàm có sự tham dự của nhà thơ Trần Gia Thái - Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội; nhà thơ Bằng Việt - nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam; nhà văn Bùi Việt Mỹ - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, các thành viên trong Ban Chấp hành Hội và gần 100 hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.

z6518033674449_250c0dfc0ee71a261cceb8872df270a6.jpg
Nhà văn Trần Gia Thái phát biểu khai mạc tọa đàm.

Phát biểu khai mạc tọa đàm, nhà văn Trần Gia Thái nhấn mạnh: Văn học Hà Nội sau năm 1975 không chỉ là nơi lưu giữ những dấu ấn của lịch sử mà còn là tấm gương phản chiếu rõ nét những chuyển động lớn của xã hội và đất nước trong nhiều khía cạnh. Ông khẳng định, các nhà văn, văn nghệ sĩ Thủ đô – dù là những người từng trở về từ chiến trường hay thế hệ tiếp nối sau này đều đang cùng thực hiện một sứ mệnh thiêng liêng: sáng tạo, cống hiến không ngừng cho nền văn học bằng những tác phẩm mới mẻ, sinh động và đầy sáng tạo. Vì vậy, những bài tham luận trong tọa đàm lần này sẽ góp phần phân tích, lý giải một cách khách quan những vấn đề học thuật, từ đó tái khẳng định những đóng góp to lớn của nền văn học nghệ thuật Thủ đô trong suốt nửa thế kỷ qua.

Với chủ đề “Văn học Hà Nội từ sau năm 1975”, buổi tọa đàm đã nhận được 11 bài tham luận gửi về. Không chỉ khái quát tiến trình phát triển của văn học Hà Nội từ năm 1975 đến nay, các bài tham luận còn chỉ ra những "điểm nghẽn" trong giai đoạn hiện tại và đề xuất định hướng sáng tác cần thiết trong bối cảnh xã hội đang có những chuyển biến sâu sắc.

Trong bài tham luận “Vị thế cao cả không thể thay thế của văn học nghệ thuật cách mạng suốt những năm qua”, nhà thơ Bằng Việt nhìn nhận: Suốt 50 năm qua, văn học nghệ thuật đã không ngừng nâng cao vị thế, có những bước phát triển tương xứng. Con người luôn là chủ thể trung tâm, là linh hồn của nền văn học nghệ thuật. Việc chú trọng xây dựng hình tượng con người mới trong xã hội cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy quá trình đổi mới văn học nghệ thuật theo từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn chỉ ra 7 vấn đề nổi bật cần phải khắc phục (như đề tài sáng tác, cách tiếp cận sáng tác, công tác đào tạo và bồi dưỡng…) để nền văn học nghệ thuật có thể đạt được vị thế xứng đáng hơn nữa trong đời sống xã hội hiện đại.

Chia sẻ những nghiên cứu trong bài tham luận “Thế hệ nhà văn 1975 trong không gian văn học đương đại”, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng nhận định lớp nhà văn sinh từ năm 1975 thông qua quan niệm văn chương và thực hành sáng tác của họ. Ông cho rằng việc đánh giá “thế hệ 1975” là điều không đơn giản bởi đây là một thực thể văn học đang không ngừng phát triển, biến hóa. Tuy nhiên, nếu muốn đi xa, đi lâu cùng văn chương, thế hệ này cần phải trải nghiệm cuộc sống cũng như văn hóa sâu sắc hơn nếu không sẽ dễ “đứt gãy” với truyền thống và thế hệ đi trước. Cuối tham luận, ông đặt ra một câu hỏi đầy gợi mở: “Thế hệ 1975 liệu có thể trở thành những nghệ sĩ ngôn từ đích thực như kỳ vọng của các bậc tiền bối và bạn đọc hôm nay? Câu trả lời thuyết phục vẫn còn ở phía trước.”

z6518033784996_6a9d7caef94a5ba1b58b384cc52a3045(1).jpg
Nhà văn Bùi Việt Thắng đặt câu hỏi đầy gợi mở: “Thế hệ 1975 liệu có thể trở thành những nghệ sĩ ngôn từ đích thực như kỳ vọng của các bậc tiền bối và bạn đọc hôm nay?"

Đóng góp cho tọa đàm với tham luận “Thi ca Hà Nội 50 năm qua có gì mới?”, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến cho rằng những năm gần đây, yêu cầu đổi mới thơ ca đã trở thành nhu cầu bức thiết và tự thân của mỗi cá nhân sáng tạo. Dù nhiều xu hướng cách tân của thơ trẻ hiện mới chỉ ở giai đoạn tìm tòi ban đầu, nhưng thập niên đầu thế kỷ XXI đã mở ra một vận hội mới cho thơ Việt. “Tôi cho rằng, những nhà thơ đổi mới thực thụ hôm nay chính là những người đang giữ được bản sắc ngôn ngữ thơ trong hành trình cách tân con chữ. Họ không ngừng tìm tòi, suy tưởng để làm tăng vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca bằng những ý tưởng mới mẻ, giàu chất sáng tạo”, ông chia sẻ.

Tiếp nối nhận định của nhà phê bình Bùi Việt Thắng về “một nền văn chương mang gương mặt nữ”, PGS.TS Trần Thị Trâm trình bày tham luận “Đôi điều về thơ nữ Hà Nội sau 1975”. Dựa trên số liệu cho thấy có tới 150 trong tổng số 200 nhà thơ là nữ, ngoài khẳng định sự hiện diện đông đảo và nổi bật của đội ngũ nhà thơ nữ Hà Nội trên bản đồ thi ca Việt Nam, bà còn phân tích ở các khía cạnh: Thơ nữ Hà Nội sau 1975 là sự kết tinh của thơ nữ Việt Nam đương đại, đậm nét thiên tính nữ với nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao và đang vận động mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa; Thơ nữ Hà Nội hôm nay không chỉ bó hẹp trong các đề tài quen thuộc đời thường mà đã thể hiện những khát vọng vươn xa, không ngừng đổi mới và sáng tạo.

491954583_1404005567290968_3167831792632851417_n.jpg
Nhà thơ Bằng Việt (giữa) cùng các nhà văn nữ của Hội Nhà văn Hà Nội.

Trong phần đóng góp ý kiến tham luận, nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu chia văn học Hà Nội từ sau năm 1975 thành 3 giai đoạn: từ 1975 đến 1986, 1986 đến 2000 và 2000 - 2025. Ông khẳng định giai đoạn 1986 đến 2000 là thời kỳ thi ca sôi động nhất trong Hà Nội, các câu lạc bộ thi ca mở ra khắp các trường học, cung văn hóa và các nhà thơ rầm rộ, đa cảm hứng, đa trí tuệ, nhiều tác giả có sự tiếp cận với nhiều hệ thống lý luận trên thế giới… Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay - thời kỳ cơ cấu xã hội biến đổi hoàn toàn, đặt ra những nhu cầu, đòi hỏi mới và nhiều nhà thơ cho thấy sự đuối sức, bất lực, không tìm được cá tính riêng trong những sáng tác nói riêng, sự nghiệp nói chung…

Bên cạnh những tham luận nặng tính học thuật, buổi tọa đàm còn đan xen nhiều tiết mục thơ ca đầy xúc động, gắn liền với những con người và địa danh in đậm trong lịch sử dân tộc. Có thể kể đến nhà thơ Trần Trọng Giá với bài thơ “Một lối về” kể về ngày Giải phóng; nhà thơ Lê Đức Minh chia sẻ kỷ niệm xúc động sau ba lần đến hang Tám Cô (Quảng Trị) mới có thể viết nên bài thơ “Đêm từ hang Tám Cô” hay nhà văn Nguyễn Thị Mỹ Dung với bài thơ “Huyền thoại Truông Bồn” cùng những câu chuyện về các nữ thanh niên xung phong năm xưa…

Phát biểu tổng kết tọa đàm, GS.TS Trần Đăng Suyền nhấn mạnh: Những vấn đề trong tọa đàm đã vượt khung vấn đề, không chỉ nói về vấn đề văn học Hà Nội mà còn vươn ra đến các tỉnh, thành khác của cả nước. Một số tham luận có nội dung phong phú, thể hiện sự tích lũy giá trị nghiên cứu trong thời gian dài, rất công phu và bài bản. Cũng vì thế, hội thảo này không khép lại mà mở ra: Những bài tham luận hay, chạm đến vấn đề lớn 50 năm văn học nghệ thuật của cả nước nên phát triển thành những công trình nghiên cứu để vừa có tính bao quát vừa cụ thể hơn./.

Linh Nguyễn