Tháng Bảy, mùa mưa ngâu
Tản văn - Ngày đăng : 07:25, 28/08/2020
Đã sang tháng mới, tháng ngâu, thầy tôi bảo trong một năm, tính theo lịch trăng, ngày mùng một và ngày rằm là thiêng nhất, đó cũng là lý do để bao đời nay người đời hương đăng, thanh thủy cùng sắm sanh vật phẩm dâng lễ. Và cũng trong một năm, tháng Bảy là thiêng nhất, trong 30 ngày này thì ngày rằm thiêng hơn cả. Lời nguyện cầu sẽ lên đến cõi cao xanh, cõi sâu thăm thẳm, đến được với thần linh, đến được với người xa khuất cho dù linh hồn ấy đang ở đâu... Đúng thật, mỗi người một suy nghĩ, một niềm mong ước, nguyện cầu khác nhau đã gửi vào giời đất đức tin của mình, khiến tháng Bảy âm lịch của năm trở nên đặc biệt.
Trong cái lạnh chuyển mùa, trong những đến và đi của nắng mưa vần vũ, bầu trời đùng đục, nhân gian vẫn bảo tháng Bảy mở cửa ngục, tháng Bảy chúng sinh được cướp quà, tháng Bảy vu lan báo hiếu với những câu chuyện truyền miệng hay thành văn với tầng tầng lớp lớp ý nghĩa khiến người đời động lòng trắc ẩn, suy tư...
Tháng Bảy ngâu khiến những ngày xưa ở ngôi nhà có hàng rào găng lối ngõ, nhà lợp ngói móc, nền đất nện, 3 gian 2 chái, ban thờ tại gian giữa cùng những nghi lễ theo mùa bà và sau là mẹ tôi vẫn bấm tay nhẩm tính và lo toan sắm sửa lại trở về trong tôi. Có câu chuyện đã phủ bụi thời gian, lại có câu chuyện như mới đây, thoảng mùi hương xạ.
Chuyển mùa là khi mưa không chóng tạnh, gió lạnh theo mưa ào xuống sân tạt vào nhà. Bà tôi bảo “Đã có thị là mít không còn ngon, hạt mọc mầm trong múi rồi, giời đã sang thu’’ - Tôi còn nhớ mãi cho đến tận giờ, đây là dấu mốc chuyển mùa thật rõ, thật thơm, như quả thị trong cái túi cước nhỏ trên tay tôi.
Vườn chùa mới có ít ngày bớt nắng mà đã xanh hơn, hoa ngâu chín vàng chi chít trên cây. Hoa đại cũng còn nở trắng. Cây nhãn cổ thụ quả già rụng đầy gốc. Trẻ con trong làng thường theo bà ra chùa chơi vừa xem các vãi soạn sửa cúng lễ, vừa là chân sai vặt, khi thì về nhà mang thêm lồng oản của nhà ra cho các cụ in oản cho nhanh, lúc lại quét góc sân chùa để trải chiếu... Chẳng biết các cụ, các bà cúng lễ gì, nhưng cũng phải tròn mắt xem từ đầu đến cuối buổi. Khi được túm nhãn lộc của nhà chùa hay ít xôi vét chõ thì còn e ngại, người nhà phải nhắc mới dám xin... Trẻ con xưa là thế.
Tôi nhớ những con đường đất mưa đọng thành vũng, cỏ hai bên đường ướt mưa, những phễu lá đa múc cháo cắm đầy trên cỏ, trong gió thoảng mùi hương xạ... Trời lại sầm sập mưa đến nơi khiến không gian chờn chợn... Nhưng vì đã theo bà lên chùa, nghe rồi nhớ, cũng đã có khi quên biến, rồi lại nghe và nhớ ngay ra rằng phễu cháo ấy là để cúng chúng sinh. Những linh hồn không người thân thờ phụng, cầu bơ, cầu bất. Mâm lễ phải cúng ngoài trời với những bộ quần áo bé xíu xếp quanh là cháo hoa, bỏng gạo... Chúng sinh đến nhận lòng tốt của người đời, rồi lại đi, đi để mong một ngày trở lại làm người. Lòng tốt của con người thật diệu kì, vừa ấm áp, vừa cảm hóa được những linh hồn bất hạnh, sai phạm...
Bà tôi còn kể về âm ti và địa ngục, nơi người xấu xa, tham lam, độc ác chết rồi bị giam trong đó, thế nên đường ăn ở mỗi ngày không được phạm. Bà kể khi đẩy bếp, lúc đơm xôi, hay cả khi nắm tay tôi từ chùa làng trở về nhà. Nhiều khi tôi không hiểu hết, sờ sợ và kể với chúng bạn. Chúng cũng sợ, sợ lây sang cả những đoạn đường thanh vắng, có rặng cây um tùm, sợ những ngôi mộ dưới ruộng bên đường...
Tôi lớn lên, đỗ vào cấp 3 trường huyện, vẫn đi trên những con đường đã từng đến trường làng, đôi khi bạn bè vẫn kể lại chuyện xưa cùng cười khúc khích. Chúng tôi không còn sợ rúm ró như hồi con trẻ, nhưng dường như đều nhớ những câu chuyện này, nhớ cùng lời dặn của bà hay của mẹ.
Tốt nghiệp cấp 3, tôi vào đại học, những ngày xưa và câu chuyện về làng theo tôi lên thành phố. Khi nếp nghĩ tròn vẹn hơn tôi cũng hiểu hơn về những nghi lễ mà bà tôi cùng các bà vãi và người trong làng đã thành tâm. Tôi hướng về đức tin mà bà đã gieo vào tâm hồn tôi những hạt giống tốt. Tôi nhớ nhất tháng Bảy, vì câu chuyện của bà trải suốt tháng. Những gạo, muối, bỏng ngô, cháo, khoai không chỉ cứu giúp cho chúng sinh mà còn khiến cho những tâm hồn này thanh thản, đó là một giá trị được nuôi dưỡng và trao truyền. Nó khiến lòng người dịu lại, khiến con người ta thức tỉnh để những ngày sau, để nếu có nơi đến sau kiếp này sẽ được tốt đẹp. Tôi cất vào trái tim cùng những tháng ngày thơ ấu êm đẹp bên bà.
Thời gian nhuốm bạc tóc, tôi hiểu rằng cuộc sống chẳng thể thoát khỏi những buồn đau, ly biệt. Đôi khi tôi mong tháng Bảy để gặp lại người đã khuất dù chỉ trong giấc mơ. Tôi mong thấy bà mặc áo the, khăn vấn nắm tay tôi đi trên con đường làng dẫn lối ra chùa hay con đường đồng dẫn ra miếu... Tôi mong gặp chị tôi bình an, tươi tắn, chị kể câu chuyện về sự thanh nhàn cõi cao xanh đầy ánh sáng và hương hoa. Chẳng xa biền biệt nữa, mà gần gặn đây thôi. Tháng Bảy đã trao một đặc ân cho người cõi này mà.
Có lẽ thế nên giời đất và ý niệm của con người gặp nhau, thế nên mới có cả một tháng ngâu, để âm dương không còn vời vợi cách xa.
Có những bữa mưa tối trời, đất trời như thể gần nhau hơn hẳn. Người đời trông mưa nỗi cổ kim ùa về hoặc chẳng thể nghĩ được gì hơn.
Tôi nói với thầy:
- Có năm nào thầy thấy không có mưa ngâu? Nếu thế là ông Ngâu bà Ngâu không được gặp nhau phải không thầy?
- Chừng nào người đời hết tình yêu trai gái lứa đôi, lúc ấy có chăng giời đất mới hết mưa ngâu.
...
Ngân Hà bao la còn có sự yêu nên đất trời vần vũ, ông Ngâu bà Ngâu gặp nhau ngày 3, ngày 7, rồi ngày 8. Nhân gian biết cả, vẫn bảo nhau mỗi khi giở gió... lạ thật , như thể người cõi trời còn mang trên vai số phận.
Tôi đến với tháng Bảy, thấm lẽ đất trời, thấm từ những nôm na xưa cũ đến những con chữ lấp lánh của thầy, tôi có đức tin và bớt chênh vênh./.