Lễ hội xuân miền di sản
Địa linh, tự bản thân nó đã là nơi chung đúc nên linh khí và kiến tạo các giá trị vật thể của vùng đất. Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, “nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông Tây” (Chiếu dời đô), là một địa linh từ ngàn xưa. Ở nơi này, người người tụ họp, do cố kết với nhau, cộng mệnh cộng cảm mà thành ra những lễ hội của cộng đồng.
Trong cả nước, Hà Nội là địa phương có nhiều lễ hội lớn nhất, tính số lượng đã ngót nghét 1.500 lễ hội. Ở những thời khắc thiêng, trong các không gian thiêng, thông qua thực hành di sản lễ hội, người Hà Nội biểu thị niềm tin, sự linh thiêng của vùng đất, sự tôn kính với tổ tiên và khát vọng hòa hợp cộng đồng.
Trong các di sản lễ hội đặc sắc của Hà Nội, nổi lên với những sắc màu trong không gian và đậm nét với những dấu ấn trong dòng thời gian là các lễ hội lịch sử, lễ hội tổ nghề hay hội làng, hội chùa.
Các lễ hội lịch sử như lễ hội đền Cổ Loa, lễ hội đền Hai Bà Trưng, lễ hội Đống Đa, hội Gióng… bừng bừng khí thế của sức xuân. Vẫn còn đây câu chuyện nỏ thần và bài học cảnh giác; vẫn còn kia khí thế ngất trời của hình ảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh đuổi giặc ngoại xâm; vẫn còn đó hào khí sấm rền và chiến công thần tốc của vua Quang Trung, và còn mãi hình Thánh Gióng, từ một cậu bé đã vụt lớn thành người anh hùng cưỡi ngựa sắt đánh tan giặc Ân rồi bay lên trời... Những câu chuyện lịch sử, những lễ hội lịch sử là di sản vô giá, truyền những âm hưởng hào hùng của khí thế dựng nước và giữ nước, những bài học lịch sử thâm sâu và lắng đọng cho thế hệ mai sau.
Các lễ hội nghề nghiệp ở Hà Nội chẳng những mang nét của đất trăm nghề mà còn gắn liền với sự hình thành và phát triển của đô thị Thăng Long, cũng như mối quan hệ nông thôn - thành thị điển hình của các đô thị Việt Nam. Bên cạnh các ngôi đình chợ, các lễ hội tôn vinh tổ nghề vẫn được tổ chức hằng năm như lễ hội đình Kim Ngân (Hàng Bạc, thờ tổ nghề Kim Hoàn), đình Phả Trúc Lâm (Hàng Hành, thờ tổ nghề da), đình Tú Thị (phố Yên Thái, thờ tổ nghề thêu), đình Hàng Quạt (phố Hàng Quạt, thờ ông tổ nghề làm quạt), đình Đồng Lạc (Hàng Đào, thờ tổ nghề làm yếm), hay ngôi đền Ngũ Xá (phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thờ ông tổ nghề đúc đồng)… Các làng ven đô với rất nhiều lễ hội phô diễn tài khéo của người dân chốn Kinh kỳ chăm chỉ, tinh tế và sáng tạo như lễ hội làng Bát Tràng (quận Gia Lâm, nghề làm gốm), lễ hội làng Vạn Phúc (quận Hà Đông, nghề dệt), lễ hội làng Chuông (huyện Thanh Oai, nghề làm nón), lễ hội làng Ước Lễ (huyện Thanh Oai, nghề làm giò chả), lễ hội làng Hạ Thái (huyện Thường Tín, nghề làm sơn mài)…
Lễ hội chùa trên đất Hà Nội là những không gian nhiệm màu có sức hấp dẫn thu hút người muôn nơi. Vào những ngày xuân, người người đến với suối Yến, núi Hương Sơn, chùa Giải Oan, động Hương Tích để gửi lời cầu bình an tới đức Quán Âm Bồ Tát ở chùa Hương (Mỹ Đức). Cũng vào những ngày xuân, khi những cây gạo nở đỏ rực không gian là mùa của lễ hội chùa Thầy (Quốc Oai) mà ai chưa đến hang Cắc Cớ một lần là như còn mắc nợ. Và những hang đá, động đá trong ngôi chùa Trầm (Chương Mỹ) nhìn ra sông Đáy là một nơi không chỉ mang vẻ đẹp cổ kính của ngôi chùa hơn 500 năm mà còn mang vẻ lãng mạn phiêu diêu thoát tục. Điểm cuối của vòng cung này là chùa Tây Phương (Thạch Thất), nơi có 18 vị La Hán mang sự trăn trở với nhân thế với “Một câu hỏi lớn không lời đáp/ Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”.
Một nét đặc sắc của lễ hội xuân Hà Nội là các hội làng. Đó là những làng có các nhân vật văn hóa được thêu dệt qua thần thoại, truyền thuyết và cổ tích. Lễ hội Bà Tấm thờ người nguyên phi Ỷ Lan, tương truyền vốn là cô gái hái dâu sau trở thành một nhân vật quyền lực trong triều Lý, người để lại nhiều dấu ấn về chùa chiền và lễ hội vùng Kinh Bắc. Hay lễ hội về vị thần núi Tản Viên, tương truyền là con rể vua Hùng thứ 18, người có công trị thủy, “nước dâng cao bao nhiêu, núi dâng cao bấy nhiêu”, giúp người dân chống chọi với nạn thủy tai để yên ổn cuộc sống khi họ dời núi cao xuống định cư ven các dòng sông. Đó còn là hội làng Triều Khúc tưởng nhớ anh hùng dân tộc Bố Cái Đại Vương đặc trưng với màn múa bồng vui nhộn và lơi lả, là hội làng Lệ Mật với các trò diễn “đả ngư”, “diệt giảo long” tri ân Đức Thánh có công khai phá vùng đất Thập Tam trại phía Tây kinh thành Thăng Long xưa… Đó còn là một loạt lễ hội ven hồ Tây như lễ hội đình Thuỵ Khuê (phường Thụy Khuê); đình An Thái, đình Võng Thị (phường Bưởi), đình Phú Xá (phường Phú Thượng); đình Nhật Tân (phường Nhật Tân); đình Yên Phụ (phường Yên Phụ); đình Quảng Bá, làng Nghi Tàm, phủ Tây Hồ (phường Quảng An)… Đó còn là lễ hội các làng Đăm, làng Giá, làng La mà trai gái đi hội xuân dường như quên cả lối về khiến ca dao có câu: “Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy/ Vui thì vui vậy, chẳng tày Giã La”. Đó còn là các lễ hội gắn với các làn điệu dân ca như hội Dô (Quốc Oai) tưởng nhớ đức Tản Viên 36 năm mới mở một lần hay hội Chèo Tàu (Đan Phượng) tưởng nhớ tướng Văn Dĩ Thành xưa kia cũng 3 thập kỷ mới một lần mở hội.
Trong các lễ hội chốn kinh đô, một lễ hội gắn với sự hình thành và phát triển của kinh thành Thăng Long xưa là lễ hội Thăng Long tứ trấn gồm đền Bạch Mã (trấn Đông), đền Quán Thánh (trấn Bắc), đền Voi Phục (trấn Tây), đền Kim Liên (trấn Nam). Sự định hình không gian 4 hướng với các mốc thời gian khác nhau, với các câu chuyện về dựng đô, giúp dân định cư, dạy dân phong tục, giúp nước giữ yên hòa bình là những câu chuyện đặc biệt quy hoạch không gian thực tế, không gian tâm linh, không gian chính trị cho vùng đất “xứng đáng nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời” (Chiếu dời đô).
Những lễ hội với cờ hoa rực rỡ, trống chiêng rộn ràng càng điểm tô cho sắc xuân Hà Nội. Nhiều trong số đó đã được ghi danh di sản cấp Quốc gia và cấp Quốc gia đặc biệt thể hiện sự tôn vinh, tri ân truyền thống của thế hệ hôm nay.
Vậy “di sản và di sản lễ hội là gì? Đó là hình ảnh của vùng đất, con người, sự kỳ vĩ của thiên nhiên, sự dài lâu của lịch sử và văn hiến, sự tài khéo của con người, sự đa dạng và khác biệt trong sáng tạo của các cộng đồng. Chính vì thế, di sản lễ hội không chỉ riêng của Hà Nội mà là di sản của cả nước, và không chỉ riêng của Việt Nam mà là của thế giới.
Là tiếng nói của cá nhân với cộng đồng, của thiểu số với đa số, của ngoại vi và trung tâm, của cộng đồng với các định chế di sản, di sản lễ hội Hà Nội là một loại tiếng nói đôi khi là vô ngôn nhưng đa thanh bởi được kiến tạo qua nhiều lớp thời gian, mang những ý nghĩa sâu lắng của tâm thức cộng đồng. Di sản lễ hội Hà Nội cũng là câu chuyện của quá khứ - hiện tại và tương lai, là các thông điệp của tiền nhân gửi tặng cho hậu thế. Thông điệp này tiềm ẩn, chan chứa trong thanh âm và sắc màu của lễ hội, thể hiện tâm tư, khát vọng về tính nhân văn được bồi đắp sâu dày. Mùa xuân đang về với nhân gian. Sắc xuân đang tưng bừng trên những mái ngói thâm nâu hòa cùng sắc hoa tươi thắm của đất trời Hà Nội. Lễ hội xuân Hà Nội, những di sản tiềm tàng ở chốn địa linh, được kiến tạo bởi bao lớp nhân kiệt đang được tiếp thêm sức mạnh bởi một kỷ nguyên vươn mình cùng dân tộc./.