Văn hóa – Di sản

Tết Việt dưới góc nhìn di sản

Nguyễn Thị Tô Hoài 10:34 02/02/2025

Tết Nguyên đán còn được gọi là Tết Cả. Đã có nhiều huyền thoại, truyền thuyết, truyện cổ dân gian xưa phản ánh nguồn gốc của Tết Cả mang tính thuần Việt như “Truyện Lang Liêu” (hay còn gọi là “Sự tích bánh chưng, bánh dày”), “Sự tích Táo Quân”, “Sự tích cây nêu”,… Và trong lịch sử hàng nghìn năm qua, Tết Cả không ngừng duy trì và củng cố mối liên kết tình cảm giữa các cá nhân, gia đình và đất nước, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong sự tiếp nối của nền văn minh nông nghiệp.

hoa-dao.jpg

Tết Cả là sự kiện đánh dấu “Kết thúc một chu kỳ nông nghiệp cũ để mở màn cho một chu kỳ mới” (GS.TS Trần Quốc Vượng). Về mặt tinh thần, Tết còn là sự bùng nổ của cái đẹp, của màu sắc, âm thanh… Thuở xưa, từ đầu tháng Chạp trở đi dù trong hoàn cảnh nào thì các gia đình cũng đều quan tâm sửa soạn chuẩn bị đón Tết. Ở nông thôn xưa, có tục thay đầu rau nặn bằng đất mới, dùng nước ngũ vị vẩy trên ban thờ, dưới bếp, trên nhà để tẩy uế. Tháng Chạp, chợ phiên càng về cuối năm càng thêm đông vui với nhiều loại hàng hóa. Người lớn dù bận đến mấy vẫn dành thời gian đưa trẻ nhỏ đi chợ mua tranh, tò he, lợn đất, cắt tóc và mua quần áo mới…
Theo phong tục cổ truyền thì dịp Tết Cả có nhiều lễ thức, được khởi đầu từ ngày 23 tháng Chạp (ngày ông Táo lên chầu trời). Vào ngày này, mọi nhà đều sắm sửa lễ cúng tiễn ông Táo. Lễ vật thường là trầu, rượu, vàng hương, hoa quả…

Những nhà có điều kiện thì có xôi, gà hoặc làm cỗ để cúng gia tiên. Trong các đồ lễ thường không thể thiếu cá chép, những nhà khá giả còn mua cả đồ mã để cúng. Chiều 30 Tết, các gia đình hối hả chuẩn bị những công việc cuối cùng để đón năm mới, trong đó có việc dựng cây nêu. Nhiều nhà còn buộc cành đa, lá dứa ngoài đầu ngõ hoặc dắt lên mái nhà, dùng vôi bột vẽ hình cung, nỏ hoặc các hình thù kỳ dị để trừ ma quỷ. Thuở trước, vào trước lễ Trừ tịch phải lo những việc như chuẩn bị đèn dầu cho chu đáo, lại hỏi người trong nhà xem có mượn của ai thứ gì thì mang trả, sợ sang ngày mồng một họ đến đòi thì bị “dông”. Cũng như vậy, nợ nần ai phải lo trả, nếu không trả được cũng mang lễ đến xin khất nợ.

Gần giờ Tý, các gia đình làm lễ tiễn quan đương niên Hành khiển năm cũ, đón quan Hành khiển năm mới. Trong đêm trừ tịch, ngoài nghi thức lễ tiễn và đón các vị quan Hành khiển tại gia đình còn có cả nghi thức cầu cúng Thổ Thần, Thổ Địa ở các khu xóm và lễ tế Thành hoàng ở làng xã. Vào trước giờ Tý, các xóm bày lễ ở miếu Thổ Thần, các thôn làng bày lễ ở đình, chùa, đền, miếu, am, phủ để tế lễ.

Trước giao thừa, nhiều người đi lễ chùa, đền, miếu. Khi về nhà mang theo vài ba nén hương đã thắp gọi là hương lộc, cắm vào bát hương ông Công, ông Táo cho có lộc. Có người bẻ một cành lá đem về làm lộc. Theo tục cũ thì kiêng ra khỏi nhà vào lúc giao thừa, ai đi đâu cũng phải về nhà trước giờ Tý (23 giờ).

Vào ngày cuối năm, các gia đình lo nhờ người xông nhà, xông đất. Người được mời đến xông nhà phải là người hợp tuổi, tính tình xởi lởi, mạnh khỏe, có khi là một bé trai kháu khỉnh, nhanh mồm miệng. Có người đi lễ đền, lễ chùa rồi chủ động về xông nhà mình luôn.

Ngày Tết, nhà nào dù túng bấn đến đâu cũng cố lo sửa soạn cơm rượu, bánh trái, khi có người đến chúc Tết vào bất kỳ lúc nào cũng cố mời ăn uống để lấy may. Đặc biệt, ngày Tết không được nói điều gở, không được gây sự, không được cãi nhau và phải thể hiện sự kính trên nhường dưới, biếu quà người già, lì xì em nhỏ..., tất cả tạo ra một ứng xử mẫu mực của lối sống tử tế. Đó cũng là cơ hội để thực hành tập dượt một lối sống lễ nghĩa.

Đến ngày mồng ba hoặc mồng bốn Tết, con cháu tập trung về từ đường chi hoặc gia đình trưởng nam để hóa vàng rồi cùng ăn uống. Từng gia đình riêng cũng có mâm cơm làm lễ hóa vàng cho Thổ Công, Thổ Địa và kết thúc ba ngày Tết. Mọi công việc làm ăn trong một năm mới lại bắt đầu, ai nấy đều tìm chọn ngày giờ tốt để xuất hành hoặc chọn làm một công việc theo nghề nghiệp của mình để cầu mong sự may mắn, thành đạt.

Ngoài các phong tục vào những ngày cụ thể, còn có các biểu tượng văn hóa và sự kiện thú vị khác liên quan đến Tết Cả. Nhiều lễ kỷ niệm, lễ hội truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác được thực hiện trong dịp Tết. Tiêu biểu như lễ hội khai bút, lễ động thổ, lễ hội xuân ở các làng xã, lễ hội gò Đống Đa ở Hà Nội…

Truyền thống ẩm thực Tết cũng đóng góp rất nhiều vào nền văn hóa ẩm thực Việt Nam với rất nhiều món ăn mang đặc trưng của ngày Tết như: bánh chưng, bánh tét, canh măng miến, giò, chả, nem, thịt đông… tất cả các món ăn đều mang đến những điều tốt đẹp nhất cho những người thân yêu trong gia đình vào dịp Tết.
Theo TS. Nguyễn Hùng Vỹ, Tết còn có “một công lao vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và tồn tại một quốc gia Việt Nam thống nhất. Tết tạo nên một biểu tượng hội nhập và khẳng định tính cộng đồng quốc gia và điều đó đã diễn ra liên tục suốt chiều dài lịch sử. Đó là sự đồng thuận rất tự nhiên về văn hóa trong đó có đóng góp vô song của Tết”.

Ngày nay, văn hóa, phong tục Tết cũng có thay đổi. Nhiều gia đình lựa chọn dịp nghỉ Tết để đi du lịch. Song với tâm thức Tết là sum họp, đoàn tụ thì có đi cũng là đi cùng gia đình, người thân để không sum vầy ở quê thì sum vầy ở một nơi khác; không sum vầy, cộng cảm với cộng đồng này thì sum vầy, cộng cảm với một cộng đồng khác. Đó chính là tính bền vững của tinh thần cộng cảm, đoàn kết, là di sản văn hóa tinh thần hình thành nên những truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam.

Cho dù nhiều phong tục ngày Tết đã biến đổi theo vòng xoáy của cơ chế thị trường nhưng những phong tục tốt đẹp là di sản văn hóa trong Tết Cả sẽ còn được truyền lưu mãi mãi, bởi nó là sự tích tụ của văn hóa, mang đậm tố chất nhân văn trong đời sống của dân tộc Việt Nam./.

Nguyễn Thị Tô Hoài