Có một nâu trầm âm thầm dẫn lối...
Chắc hẳn “Nâu trầm” là một bài thơ mà nhà thơ Dương Văn Lượng tâm đắc và vì thế nó mới được đặt tên cho tập thơ anh mới xuất bản gần đây qua Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Hai từ này xuất phát từ hai câu thơ: “Nước lạnh và lửa nung nghìn độ/ Viên gạch màu nâu trầm”.
Tất nhiên, không chỉ là màu của viên gạch, mà còn là “Màu của sắn, khoai, hạt ngô, hạt gạo/ mái rơm, mái rạ, tháng bảy, tháng ba/ bến nước, cây đa, câu ca quan họ” và cả màu của “Đất đồng trũng năm nào cũng ngập.../ Sống cùng nước/ Đục trong với nước” để “Tôi một đời đắng ngọt phù sa” (Đắng ngọt phù sa). Tóm lại, màu biểu tượng của quê hương được Dương Văn Lượng dày công dựng lên. Mặt khác, “Nâu trầm” còn chính là cuộc trở về nguồn cội, trở về cố hương, trở về nhà, trở về với những gì thân thương, gần gũi, máu thịt của tác giả với:
Con đường làng cây xanh rợp bóng
Bước chân ai năm tháng đi về
Có một nâu trầm âm thầm dẫn lối
Một nâu trầm lắng đọng hồn quê.
Đó là một động lực “âm thầm dẫn lối”. Đó là nơi mà đích về là “lắng đọng hồn quê”. Và nói không quá thì chỉ riêng cái tên tập thơ và bốn câu thơ này thôi, đã góp phần làm nên sự độc đáo và hấp dẫn độc giả.
“Một nâu trầm lắng đọng hồn quê” ấy gắn với cuộc đời tác giả và mẹ của tác giả đến nỗi: “Mẹ cấy một đời đông/ Che chiều nào cũng gió”. Đây là hai câu thơ thật hay trong một bài thơ cũng thật hay, diễn tả nỗi vất vả, sự hy sinh chịu đựng của đời mẹ, mang tên “Áo tơi”. “Một nâu trầm lắng đọng hồn quê” ấy đã giúp tác giả “nghe” được “nỗi đau ngấm từng gốc rễ” (Đồng điệu). “Một nâu trầm lắng đọng hồn quê” ấy cũng là nỗi nhớ làng của tác giả và nỗi đau đớn của làng trong cơn lột xác để đổi thay: “Làng tôi vặn mình lên phố” (Làng). Chữ “vặn” ở đây là một động từ mạnh, được đặt ở vị trí khá đắc địa. Đi kèm với sự lột xác ấy là sự trả giá không kém phần vật vã, đớn đau:
Nắng nắng, mưa mưa kiếp đời sấp ngửa
Khấp khểnh vòng quay kim tiền...
(Cảm xúc tháng Tư)
Có nhà thơ từng viết: “Không hôm qua chẳng hôm nay/ Không hôm nay chẳng có ngày mai đâu”. Nêu thế để thấy, thời gian là một hành trình không đứt đoạn và luôn tuân theo một quy luật bất di bất dịch: Không có quá khứ thì không có hiện tại, không có hiện tại thì chẳng có tương lai. Cho nên, Dương Văn Lượng còn nặng lòng với những gì đã qua là điều dễ hiểu. Cũng bởi thế mà trong “Đồng Hới”, anh mới khắc họa cái đã qua, sự trải qua có màu sắc riêng một cách sâu rộng và có phần khái quát:
Bàu Tró gương trời soi cuộc bể dâu
Vẫn chưa thôi nếp nhăn trần thế
Thành cổ rêu phong mấy tầng lịch sử
Lũy Thầy còn nghe ngựa hí, voi gầm
Đêm Đồng Mỹ nhớ trăng Hàn Mặc Tử
Sóng nhân tình vỗ khúc trầm luân
Từng là một người lính nên Dương Văn Lượng rất hiểu người lính và có cách nhìn nhận, đánh giá của một người trong cuộc. Sau nhiều năm khi chiến tranh đi qua, Dương Văn Lượng đã có độ lùi nhất định. Anh nhìn lại Quảng Trị cùng những người lính hi sinh ở Thành cổ với những lời tri ân, hàm ơn không dứt: “Trời Quảng Trị sáng vầng bất tử/ Sông Thạch Hãn kết đài hoa đăng/ Mỗi tấc đất cùng trở thành lịch sử/ Mỗi phút giây cũng hóa vĩnh hằng” (Quảng Trị). Bằng thủ pháp so sánh: Trời Quảng Trị với vầng bất tử, sông Thạch Hãn với đài hoa đăng, tác giả đúc rút:“Mỗi tấc đất cũng trở thành lịch sử/ Mỗi phút giây cũng hóa vĩnh hằng”, làm tứ thơ thêm sức nặng. Đọc “Quảng Trị”, tự dưng tôi nhớ đến bài thơ “Đò xuôi Thạch Hãn” mãi đi cùng năm tháng của nhà thơ Lê Bá Dương:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi nghìn năm.
Trong “Nâu trầm” còn có “Đá cộng đồng”, “Tạ lỗi gió đông” và “Cám ơn”. Đây là những điểm nhấn của “Nâu trầm”. Câu “Ở đâu đá cũng cộng đồng” là một phát hiện. Năm câu “Chát đọi chè xanh mời người xưa cũ/ Mắt nhìn mắt ngập ngừng/ Bao mùa trăng cắm sào đợi nước/ Đò đầy.../ Đò phải qua sông” thật xa xót. Còn toàn bài “Cám ơn” chính là một “nghịch lý thuận chiều” giàu triết lý:
Cám ơn người đã bỏ tôi
Để tôi biết tình yêu không hề mất
Cám ơn người đã ghét tôi
Để tôi biết vị tha là có thật.
Sau những “Khoảng lặng”, “Miền ký ức”, “Hoa sóng”, “Tự thức”, “Qua miền sáng tối”, “Gọi nắng” (được xuất bản từ năm 2017 đến 2022), đến “Nâu trầm”, Dương Văn Lượng đã chứng tỏ là một người viết đều, viết khoẻ, đã ít nhiều để lại dấu ấn trong thơ theo cách của mình.
Trong “Đêm thơ Hoàng Thành”, Dương Văn Lượng có hai câu kết:
Khi câu thơ tạc vào lịch sử
Mảnh gốm nghìn năm cũng thi ca
Đó là ao ước, sự hướng tới của một đời thơ, cũng là sự tôn vinh thơ đến tận cùng và hết lòng từ trong sâu thẳm./.