100 năm sinh nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989): Chế Lan Viên bàn về Thơ mới giữa đương thời Thơ mới
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 09:17, 06/11/2020
Trước khi xuất bản thi tập Điêu tàn (1937), Chế Lan Viên đã có thơ in trên các báo Tin văn, Ngày nay, Bắc Hà, Tiểu thuyết thứ bảy, Phụ nữ, Trong khuê phòng, Người mới… và khơi gợi được sự chú ý của dư luận. Đồng thời bản thân Chế Lan Viên cũng nêu ý kiến về thơ và lên tiếng trao đổi, tranh luận, bình luận về thơ ca nói chung.
Nhà thơ Chế Lan Viên
“Làm thơ là sự phi thường”
Vừa khi Chế Lan Viên mới có một số bài thơ in báo và Điêu tàn còn ở dạng bản thảo, bạn thơ đàn anh Hàn Mặc Tử (hơn Chế 8 tuổi) đã nồng nhiệt chào đón và hy vọng qua bài viết Những văn tài mới nở: Chế Lan Viên - thi sĩ của vương quốc Chiêm Thành đăng trên báo Tràng An (số ra ngày 6/7/1937). Tự bản thân mình, Chế Lan Viên đã viết lời tựa cho tập thơ Điêu tàn (Mai Lĩnh Xb, Hà Nội, 1937). Bài tựa có dòng lạc khoản ghi rõ “Viết ở Tháp Đồ Bàn một đêm thu đầy trăng”, trong đó xác định một quan niệm riêng về thơ ca và đặc biệt nhấn mạnh tư chất, phẩm chất và vai trò cá tính nhà nghệ sĩ:
“Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người mơ, người say, người điên. Nó là tiên, là ma, là quỷ, là tỉnh, là yêu, nó thoát hiện tại. Nó xối trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai.
Người ta không hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý. Nhưng thường thường nó không nói. Nó gào, nó thét, nó khóc, nó cười. Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào nước mắt, nó cười tràn cả tủy là tủy. Thế mà có người tự cho là hiểu được nó, rồi đem nó so sánh với người, và chê nó là giả dối với người. Với nó, cái gì nó nói đều có cả”...
Rồi Chế Lan Viên đi sâu phân tích, lý giải, xác định sự đồng điệu giữa chủ thể tác giả với người đọc, giữa thế giới nội tâm với cõi đời xa rộng, giữa quá khứ với hôm nay, giữa nghệ thuật với thực tại đời thường:
“Hãy nghĩ lại! Có ai thấy, vào buổi chiều, rụng ở trong tháp một viên gạch cũ mà hỏi: Viên gạch ấy chu vi, diện tích bao nhiêu? Đúc từ đời nào? Ở đâu? Bởi ai? Và để làm gì?
Điêu tàn có riêng gì cho nước Chiêm Thành yêu mến của tôi đâu? Kìa kìa nó đang đục sọ dừa anh. Tiếng xương rạn vỡ dội thấu đáy hồn tôi.
Đọc tập Điêu tàn này xong, nếu lòng anh vẫn dửng dưng không có lấy một cơn sóng gió thì xin anh hãy cầu khấn tất cả những gì thiêng liêng, những gì cao cả tha tội cho phạm nhân là tôi đây. Nếu, khi sách đọc xong mà cái buồn, cái chán, cái hãi hùng cũng ùa nhau đến bọc lấy hồn anh, làm cho anh phải cười, phải gào, phải khóc, thì xin anh chớ hẹp hòi gì mà cười cho mênh mang, gào cho vỡ cổ, khóc cho hả hê, rồi gửi cái cười, cái gào, cái khóc ấy cho không trung. Tôi nằm ngủ ở trong sao, nghe được, tung mây ngồi dậy, vồ lấy cái quà quí báu ấy rồi say sưa, rồi ngây ngất, rồi điên cuồng vỗ lên đầu sao Khuê, sao Đẩu, lên cả Nguyệt Cầu mà bảo chúng nó rằng:
- Ha, ha! bay ôi! Loài người thành thi sĩ như ta cả rồi.
Và vênh vang, kiêu ngạo, ta lấy mây làm bút, lấy trăng làm mực đề lên nền trời xanh: Trong thơ ta dân Chàm luôn sống mãi/ Trong thơ ta xương máu khóc không thôi”…
Trung thực, sòng phẳng với chính mình
Sau khi tập thơ Điêu tàn chính thức xuất hiện trên văn đàn, chí ít nhà phê bình Trương Tửu đã có liền hai bài bình luận. Bài thứ nhất nhan đề Một thi sĩ của điêu tàn in trên báo Ích hữu (số 101, ra ngày 26/1/1938), bình giả xác định thơ Chế Lan Viên dường như là sự bù đắp cho dòng chảy bề nổi dương tính “cái sống rộng rãi và mãnh liệt” và triệt để đắm chìm trong cõi âm hư ảo, đẩy đến tận cùng mọi niềm chiêm cảm và ám gợi một điều gì ma mị. Tiếp ngay kỳ sau trên báo Ích hữu (số 102 + 103, ra ngày 9/2/1938) là bài Quan niệm thơ của Chế Lan Viên, Trương Tửu tỉnh táo gián cách và cố gắng chỉ ra cái “sở đoản” trong thi mạch sở trường của thơ Chế và trực diện phản bác, “truy kích” tận cùng cội rễ quan niệm và tâm thế nghệ thuật Điêu tàn của tác giả Điêu tàn: “Chẳng chóng thì chầy, ông Chế Lan Viên sẽ biết thành thực khóc cái Điêu tàn mà hiện giờ ông mới chỉ có cảm tình, nhờ trực giác. Bấy giờ ông mới lại sẽ hiểu thêm rằng: khóc cái điêu tàn dĩ vãng chưa đủ, phải khóc cái thống khổ hiện tại nhiều hơn. Vì cái khóc kia đưa đến cái không mà cái khóc này mới dắt đến tranh đấu. Tranh đấu, ấy mới là biết sống”...
Đương khi ấy, Phong Trần (một bút danh của Hàn Mặc Tử) đã bất chấp cả thiên hạ mà đồng cảm, hoan hỉ, reo mừng, tán thưởng Chế qua bài viết Chế Lan Viên – một thi sĩ điên trên báo Tiến bộ (số 20, tháng 3/1938). Trong khi Hàn Mạc Tử nhập thân ca tụng Chế Lan Viên bất chấp mọi dư luận thì chính Chế xưng danh là người của Trường Thơ Loạn lại lên tiếng với bài Ông Trương Tửu cãi lại ông Trương Tửu trên báo Bắc Hà (số 12, ra ngày 26/3/1938). Đoạn mở đầu, thi sĩ trẻ Chế Lan Viên biện luận sắc sảo, đanh thép, quyết liệt khi nhà phê bình nêu ra yêu cầu định hướng, chỉ đạo thơ ông cần phải có thêm tiếng nói “tranh đấu”, “muốn thơ có ích”, “vì ích lợi chung” và “có ích cho xã hội”:
“Vừa phân chất và chứng thực sự đau khổ của người ta đó, vừa phân bua rằng mình đã xúc động trước sự đau khổ đó, rồi lại bảo: không, anh ấy giả dối. Nghĩa là bảo: tôi có cảm động gì đâu!
Ông Tửu ạ, có khi nào ông thấy một người đi khóc mướn mà rỏ giọt lệ không ông? Đừng nói không, theo lẽ phải dặn. Thật thế đấy! Vì người khóc mướn có khi lại có một lòng thương thành thực.
Tôi, người khóc mướn của dân Chàm đây. Nhưng lòng tôi thành thực, và những giọt lệ ở mắt tôi không phải tôi cố nín thở mà chính tự tim trào ra thì ông bảo sao? Hẳn ông bắt tôi phải quay về trong Phan Thiết, vào một làng Chàm đầu thai rồi mới thực kia ư?
Không cần đến thế!
Ông thử hỏi: Điêu tàn có làm cho ta cảm động không? Nếu có, thế là thành thực rồi. Cần gì phải nhọc công. Còn ông đoán tôi là người An Nam chắc ông tưởng tôi cho ông tài lắm đấy. Không đâu ông ạ. Tôi biết rằng ông Nguyễn Vỹ đã nói cùng ông”...
Có thể nói lời biện luận có phần quyết liệt này xét cho cùng là bởi sự so lệch giữa cách đọc của người phê bình với tâm thế của chủ thể sáng tạo. Về cơ bản, Trương Tửu đánh giá cao chiều sâu suy tư và nghệ thuật thơ Chế Lan Viên nhưng cũng cho rằng thế giới thơ Chế quá xa lạ với đời sống thực tại. Với Chế Lan Viên, ông xác quyết quyền tự do sáng tạo và vị thế thi sĩ của mình trong việc khám phá, tái tạo một thế giới hiện thực nghệ thuật mới, những ám ảnh nghệ thuật kiểu mới và theo đó là những cách đọc mới. Mỗi người đều có cái lý của mình nhưng thực tế lịch sử cho thấy việc đặt ra nhiệm vụ cho thơ “tranh đấu”, “có ích cho xã hội” dễ có cơ sa vào công thức, tuyên truyền, minh họa. Rồi cuộc đời sẽ đặt ra những thách thức và tạo nên những nghịch lý trong thành quả nghiên cứu, phê bình và sáng tạo nghệ thuật của cả hai ông…
Tiếp đến bài Lòng tôi sống lại ở trong chiều buồn in trên Tiểu thuyết thứ năm (số 23, ra ngày 30/3/1939), Chế Lan Viên có thêm lời đề từ “Gửi đáp những linh hồn thân yêu” và dẫn giải:
“Những câu thơ trên, vội vàng tôi viết nó, giữa lúc trong lòng tôi phục sinh những kỷ niệm đã muôn lần chôn lấp. Suốt ngày lễ hôm nay, tôi đi lang thang khắp thành Bình Định dưới một bầu trời đục như mắt người mù, cho nên buồn như mắt người mù. Tôi thấy những đứa trẻ thơ ngây đã mất cả vẻ thơ ngây, tôi đã thấy những người con gái không có gì là con gái. Bùn ở rãnh và ở quần áo khách bộ hành. Rêu ở mái ngói. Và ở mái tranh, mạ lúa. Và tôi nghe những con đường gai chốc, gẫy mình ra từng khúc dưới những cỗ xe bò đi.
Ô hay! Lòng tôi sống lại!
Sống lại để mà thương, để buồn thảm cho cái đời sống, mỗi lúc mỗi điêu tàn, mỗi lúc mỗi đen tối, của người vật, của cây cỏ, của nhà cửa, đường xá xứ Bình Định thân yêu này”...
Trong bài bình luận Nhà thơ Đường cuối cùng: Quách Tấn in trên báo Bạn đường (số 6, ra ngày 1/5/1941), Chế Lan Viên đi sâu phân tích và đánh giá cao hồn thơ Quách Tấn:
“…Nhưng tâm hồn của nhà thơ cũ Quách Tấn là như thế nào? Trong sự giao du cũng như trong thi văn của thi sĩ, tôi nhận thấy có mấy điều đáng chú ý nhất. Đầu tiên là Tánh Cách Vương Giả - cái tánh cách cần thiết cho một nhà thơ. Nhà thơ có thể bình dân, có thể quê mùa, có thể vẩn đục, có thể tăm tối… nhưng cái bản chất cao quí, làm sao chúng ta cũng phải bắt buộc nó phải vẹn nguyên…
… Cái đặc điểm thứ hai của tâm hồn Quách Tấn là sự điều hòa. Ông điều hòa cảnh này cùng cảnh khác, tình này cùng tình khác. Và tình cảm ông lại điều hòa với nhau. Không khí của câu thơ nhờ thế mà êm dịu lạ thường, như một buổi mai tĩnh lặng sau một đêm dài của mùa xuân. Cái tính cách điều hòa ấy lại giúp cho một tâm hồn, riêng chỗ biết của tôi, phong phú như tâm hồn ông ta, ăn nhịp dễ dàng với cái lề luật khắt khe, cái thể đối đáp ràng buộc ở trong thơ cũ…”.
Có thể thấy giữa đương thời phong trào Thơ mới (1932-1945), ngay từ khi mới ngoài tuổi hai mươi, Chế Lan Viên đã bộc lộ rõ năng khiếu phê bình sắc sảo, giàu cá tính. Ông đã viết tựa cho tập thơ của chính mình, biện luận và luận chiến không khoan nhượng với nhà phê bình để bảo vệ quan niệm nghệ thuật riêng, đồng thời mở rộng sự bình phẩm, ngợi ca tài năng những người cùng thời. Trên tất cả, Chế Lan Viên thể hiện một tiếng nói trung thực, sòng phẳng với mình và với người, dấn thân nhập cuộc và sống hết mình với nghệ thuật thi ca.