Văn hóa – Di sản

Thái Thuận – từ miền quê Kinh Bắc đến kinh thành Thăng Long

Nguyễn Hữu Sơn 05/11/2023 15:46

Thái Thuận (1441 - ?), tự Nghĩa Hoà, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lã Đường, quê sinh ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, xứ Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Vùng quê ấy cách không xa trung tâm Phật giáo cổ Luy Lâu - nơi đình tổ của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi - đồng thời cũng là miền đất trù phú của đồng bằng Bắc bộ, điểm tiếp nối với xứ Hải Đông và cận kề cửa ngõ phía bắc của kinh thành Thăng Long.

thai-thuan.jpg
Tranh minh họa Thái Thuận trong cung.

Vốn xuất thân bình dân, có thời làm lính dạy voi, mãi đến năm Ất Mùi (1475) đời Lê Thánh Tông mới thi đỗ Tiến sĩ, làm quan ở Viện Hàn lâm trải hai mươi năm, sau giữ chức Tham chính Hải Dương và đi công cán qua các vùng Thanh - Nghệ - Quảng Bình - Quảng Trị - Thuận Hóa... Tương truyền ông được Lê Thánh Tông mời vào Hội Tao đàn, cử làm Tao đàn Sái phu (Phó Nguyên súy). Đương thời Thái Thuận sáng tác hàng ngàn bài thơ nhưng chưa soạn thành tập. Sau khi ông qua đời, người con là Thái Đôn Khác và một người học trò là Đỗ Chính Mô mới sưu tập, viết bài tựa vào giữa mùa thu năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 10 (1510) đời Lê Tương Dực, đặt tên Đường di cảo (Bản thảo còn lại của Lã Đường)...

Lã Đường di cảo hiện còn 264 bài thơ, được người đương thời và hậu thế coi là tập thơ hay vào bậc nhất trong số các thi tập nửa sau thế kỷ XV. Phong cách thơ Thái Thuận một mặt được định hình trên cơ sở cội nguồn văn hoá miền quê Kinh Bắc và tính chất thời đại an bình, thanh bình, song còn do chính môi trường xã hội, địa vị và bản lĩnh nghệ thuật nơi con người ông quy định.

Trong sự cảm nhận của một nhà nho thành đạt, trong tư thế và tầm nhìn của một ông quan chính thống, Thái Thuận thể hiện rõ tiếng nói chức năng, phận vị, quan phương khi ca ngợi đức sáng của nhà vua và xã hội an bình. Có thể xác định những bài thơ này hoàn toàn nằm trong dòng chảy của lối thơ xướng họa, đề vịnh, tụng ca vua sáng tôi hiền, “quân minh thần lương”. Trong đôi câu kết bài Thời vũ (Mưa đúng lúc), Thái Thuận quy tất cả vẻ đẹp đất trời, vạn vật và thời vận năm được mùa vào công đức giáo hóa của nhà vua:

Đế đức hỷ phù càn đức đại,

Tư dân tư thế hựu ung hi.

(Đức vua ta lớn như trời vậy,

Dân ấy đời nay thịnh vượng chung)

Vốn xuất thân bình dân và đã từng làm anh lính hướng nghiệp quản tượng dạy voi, lại tới tuổi 35 - lứa tuổi muộn mằn, lứa tuổi đã định hình cả tính cách, sở thích lẫn sở trường sở đoản - ông mới đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Mặc dù được giữ chức Hiệu úy ở Viện Hàn lâm hơn hai mươi năm, được dự hàng Tao đàn và được vua Lê Thánh Tông khen là tay “tự chuyên ở làng thơ”, song tất cả vẫn không xoá mờ dấu ấn nguồn gốc bình dân và tâm thức “vọng cố hương” canh cánh bên lòng. Và có sống trong cảnh quê, có mở lòng thanh thản hoà hợp với cảnh quê, “an bần lạc đạo” với thú quê, bình tâm trong lẽ “tri chỉ”, “tri túc” trước những lo toan thường nhật thì mới có được niềm thích thảng và biết vui đùa với chính cảnh thanh bạch bần hàn của mình. Ngay cả khi làm quan và sống giữa nơi kinh thành, trước sau Thái Thuận vẫn nhận mình chỉ là con người đời thường, không dám xếp hạng người tài “mười tám vị tiên”:

Tự tín tài phi thập bát tiên,

Tràng An không thử tuế hoa thiên.

Tiêu điều quan xá như tăng xá,

Lạo đảo kim niên kịch vãng niên.

Thượng uyển điên cuồng liên hí điệp,

Cố hương qui khứ phụ đề quyên.

Thê noa do vị hiềm năng ẩm,

Thời biện nang trung mãi tửu tiền.

(Tràng An xuân mộ)

(Tự biết tài thua “thập bát tiên”,

Trôi qua năm đẹp đất Tràng An.

Năm nay lận đận hơn năm ngoái,

Cửa bụt tiêu điều sánh cửa quan.

Thượng uyển quay cuồng thương cánh bướm,

Cố hương khắc khoải phụ chim quyền.

Vợ con chưa phải hiềm hay uống,

Mua rượu, trong bao vẫn trữ tiền)

(Chiều xuân ở kinh đô)

Bài thơ quả là mộc mạc chân quê, vừa diễn tả cái nghèo vừa hóm hỉnh bởi biết mình được vợ quý yêu và cũng khá là cao tay trong thuật “nịnh vợ” - lúc nào trong túi vợ cũng dành sẵn tiền cho việc mua rượu!

Sống giữa nơi kinh đô nhưng Thái Thuận luôn đồng cảm với một ánh trăng thu, một tiếng côn trùng kêu đêm, một tiếng tù và xa ngái. Đối diện với cảnh đêm thu, lòng thi nhân càng trở nên bâng khuâng trước dòng thời gian đang qua mau, mái tóc ngày một phai sương. Vậy là sống giữa nơi đô hội mà nhiều khi nhà thơ thấy mình lẻ loi, đơn côi, cô quạnh. Có thể gọi đó là nỗi buồn thi nhân không tuổi không tên:

Đảo y hà xứ chử đinh đông,

Khách xá thu thanh độc tọa trung.

Lương tứ mãn đình phong tại thụ,

Hàn quang nhập hộ nguyệt đương không.

Ô ô thành thượng minh hoa giốc,

Tức tức ly biên tố thảo trùng.

Bách cảm công tâm nan tự nhược,

Minh triều chỉ khủng mấn thành ông.

(Tràng An thu dạ)

(Nện vải thình thình đâu vắng sang,

Một mình quán khách tiếng thu vang.

Lùm cây gió lộng sân đầy lạnh,

Từng biếc trăng treo cổng trải vàng.

Sâu cỏ bên rào kêu rỉ rỉ,

Sừng hoa đầu lũy rúc oang oang.

Cảm hoài trăm mối lòng se lại,

Đến sáng mai e tóc điểm sương)

(Đêm thu ở kinh đô)

Đọc Lã Đường di cảo như thấy rõ hoàn cảnh cuộc sống và niềm tâm sự lắng sâu trong lòng tác giả. Thái Thuận đề thơ trên vách nhà nơi trú phường, cảm thương thân mình như khách trọ nơi cõi tạm trần gian, muốn dứt bỏ công danh làm một ẩn sĩ:

Tràng An xa mã hỗn hồng trần,

Ngô ái ngô lư tự ẩn luân.

Bắc khuyết vô thư can thế dự,

Tây Hồ hữu nguyệt cấp thi bần.

Trầm phù ngã thị thâu chân giả,

Tịch mịch thùy phi tán phát nhân.

Tâm sự hạn kỳ Trần sử sĩ,

Dã hoa đề điểu nhất ban xuân.

(Đề Toản Viên phường sở cư bích thượng)

(Kinh đô xe ngựa cảnh ồn ào,

Nhà ẩn cư mình giống lại yêu.

Cửa Bắc không thư cầu lợi đạt,

Hồ Tây có nguyệt giúp thơ nghèo.

Qua ngày, ta cũng đành chìm nổi,

Xõa tóc, ai mà chẳng quạnh hiu.

Tâm sự hẹn cùng Trần xử sĩ,

Xuân, hoa đồng nở, rộn chim kêu)

(Thơ đề trên vách nhà tại phường Toản Viên)

Trải mười năm ở trú phường Toản Viên, Thái Thuận trở nên thông thuộc, thân quen một tiếng chuông chiều Cửa Bắc, một bóng chim Tây Hồ, một bờ liễu, một ghềnh đá ngồi buông câu. Tất cả hiện hình trong một bức tranh cụ thể, sống động, có mây bay và gió nổi, có tình và có cảnh trong bài Toản Viên tự thuật (Tự thuật ở Toản Viên):

Thập tải Trường An do tự mộng,

Nhàn tình độc dữ cố sơn vi.

Hiểu tùy Bắc khuyết chung câu khởi,

Mộ hậu Tây Hồ điểu cộng qui.

Hương tín mỗi ư đăng hạ khán,

Thành vân đa hướng hạm tiền phi.

Liễu kiều vị ức trùng du xứ,

Ưng hữu đài hoa thướng điếu ky.

(Mười năm giấc mộng kinh đô đó,

Núi cũ thanh u trái hẹn thề.

Chuông Cửa Bắc theo khi sớm dậy,

Chim Hồ Tây đợi lúc chiều về.

Mây bay trước cửa: mây thành thị,

Tin đọc bên đèn: tin xứ quê.

Cầu liễu bao phen chơi vẫn nhớ,

Ghềnh câu rêu đá đã đâm huê).

Hình như xa xôi trong tâm sự Thái Thuận vẫn có điều gì ẩn khuất, không mấy bằng lòng trước thực tại. Giữa đêm thu nằm trực ở nhà Kim Phong bên cửa Vạn Xuân, ông vẫn bâng khuâng, thao thức không ngủ được. Khi lui chầu, ông trở về nhà ngắm hoa mai lạnh, nhìn mây bay về chiều và cảm nhận nỗi cô đơn se lạnh. Nỗi buồn trước thực tại càng là cái cớ để ông Tư thân (Nhớ đấng thân), nhớ về cố hương, nhớ về nơi quê cha đất tổ:

Nhị Hà đông vọng vị hồi trình,

Lữ xá cô vẫn nhãn để sinh.

Khách xá dục qui qui vị đắc,

Nhất xuân cô phụ đỗ quyên thanh.

(Trông về đông phía dòng sông Nhị,

Quán trọ, mây từ đáy mắt lên.

Đất khách toan về, về chửa được,

Chiều xuân đành phụ tiếng chim quyên)

Trong những năm làm quan, Thái Thuận có nhiều bạn bè. Qua những bài thơ có thể hiểu được tình bạn bè của ông thật trong sáng, thủy chung. Dường như ông đặc biệt gắn bó, thân quý những người bạn đồng triều có gốc gác thôn quê, có cùng cảnh ngộ và niềm tâm sự vọng cố hương. Mỗi lần thấy bạn bè về thăm quê hay được nghỉ hưu, ông lưu luyến tiễn đưa và tặng thơ. Một lần ông tiễn bậc đàn anh, quan Thừa chỉ họ Võ về xứ Bắc trong niềm hân hoan, hòa nhập sự thanh thản của lòng người cùng vẻ tươi đẹp của đất trời:

Quá liễu tiên chu Nhị thủy tân,

Mã đề hương động Bắc Giang trần.

Phong quang dương liễu kiều biên quýnh,

Sơn sắc tùng thu vũ hậu tân...

(Tiễn Thừa chỉ Võ tiên sinh hồi hương)

(Sông Nhị thuyền tiên lướt thảnh thơi,

Bắc Giang vó ngựa bụi thơm rơi.

Tùng thu sắc núi sau mưa tốt,

Dương liễu bên cầu trước gió tươi)

Phần nhiều sự chia tay trong thơ ông thấm đậm những ưu tư, vừa tiếc nhớ một thời vừa đặt mình trong cảnh ngộ người bạn, bâng khuâng chờ đón năm tháng cuối đời nơi quê hương:

Đô môn hiểu xuất mã ti thì,

Nhật thướng giang đình yến yến phi.

Nhị thủy lục phân hoàng điểu thụ,

Hoa lâm hồng tẩy đỗ quyên chi.

Tân tri cựu thức tam bội tửu,

Hòa khí xuân phong nhất thái y.

Ký đắc đình vi diễn vọng cửu,

Khê kiều khách lộ mạc kê trì.

(Tiễn Ngô Kiểm thảo qui Gia Lâm)

(Cửa thành ngựa hý ban mai rộn,

Bầy én trên sông lượn múa chào.

Nhị thủy cây xanh hoàng điểu hát,

Hoa lâm cành đỏ đỗ quyên kêu.

Bạn bè cũ mới ba tuần rượu,

Phong khí vui tươi một áo màu.

Xin nhớ song thân chờ đợi mãi,

Qua cầu vượt suối chớ đi lâu)

(Tiễn quan Kiểm thảo họ Ngô về Gia Lâm)

Khi làm thơ tiễn người bạn chí thiết họ Đỗ, Thái Thuận kể lại những kỷ niệm xưa đi chơi Tây Hồ và hôm nay lưu luyến chia tay nơi bến đò. Thời gian như ngưng đọng trong giờ phút chia ly. Tất cả quãng đời quá khứ và hiện tại đan xen, đan kết thành mối sầu ly biệt. Phải là một tình bạn tri kỷ, sâu sắc và chân thành, thi nhân mới có được những lời thơ sâu lắng tình người:

Ức tích Tây Hồ ngã dữ quân,

Khinh sam tiểu phiến cộng du xuân.

Thâu thiên đình viện hoa nghinh mã,

Ca quản lâu đài nguyệt chiếu nhân.

Phong vũ nhất chiêu sinh biệt hận,

Giang sơn lưỡng xứ hạn thông tân.

Khả liên kim nhật trùng hồi thủ,

Trường đoạn giang châu đãn bạch tần.

(Tống Đỗ Minh phủ)

(Hồ Tây tôi bác nhớ từ thời...

Xuân đến cùng nhau dạo bước chơi.

Sân rộn trò đu hoa đón ngựa,

Lầu vang giọng hát nguyệt soi người.

Gió mưa một sớm hờn chia bóng,

Sông núi hai miền bến khác nơi.

Đáng tiếc hôm nay đầu ngoảnh lại,

Bãi sông man mác, dạ bồi hồi)

Vốn là nhà thơ nặng tình với quê hương nên khi sống giữa chốn kinh kỳ, Thái Thuận luôn vọng nhớ cuộc sống nơi thôn dã bình dị, nhớ cha mẹ, nhớ từng tiếng gọi đò, từng vệt khói lam chiều, từng góc vườn, từng gợn gió thu se lạnh... Tuy nhiên, Thái Thuận cũng là người trải nhiều năm tháng ở chốn kinh kỳ nên hình ảnh Hồ Tây, Nhị Hà đã trở nên thân thiết, trở thành quê hương thứ hai của ông. Vì thế, khi ở giữa kinh đô Thái Thuận tha thiết nhớ quê hương nhưng khi phải xa cách ông lại man mác nhớ về dòng sông Nhị Hà. Ông ghi lại cảm xúc chân thực của mình khi đi thuyền trên bến Đại Than:

Tràng An hồi thủ tứ du du,

Nhất phiến qui phàm cảm trệ lưu.

Nam bắc ái tha giang thủy thượng,

Đại Than lưu tự Nhị Hà lưu.

(Phát Đại Than dữ Hải Dương chư công phú biệt)

(Kinh đô ngoảnh lại tứ chơi vơi,

Một cánh buồm về dám nghỉ ngơi.

Dòng nước đáng yêu nam với bắc,

Đại Than trôi hệt Nhị Hà trôi)

Thái Thuận là nhà thơ tài cao, đi nhiều, biết rộng. Từ miền quê Kinh Bắc, ông làm quan ở kinh đô nhưng đã từng vào nam ra bắc, lên rừng xuống biển và ghi lại nhiều địa danh trong sáng tác thơ ca. Trong những năm làm quan, ông luôn nhớ về quê hương nhưng cũng hết lòng yêu quí miền đất thanh lịch Thăng Long - Đông Đô. Trên tư cách Tạo đàn Phó Nguyên súy, thơ Thái Thuận có phần hướng tâm, vừa thể hiện tư cách con người chức năng qui phạm, quan phương chính thống nhưng cũng có cả tiếng nói trữ tình, tiếng nói ly tâm bày tỏ nỗi lòng con người cá nhân và những vui buồn thường nhật. Với Lã Đường di cảo, Thái Thuận đã để lại cho đời một tiếng thơ hồn hậu, đằm thắm tình người, chan hòa với cảnh vật và thiên nhiên đất nước./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Nguyễn Hữu Sơn