Quán Viên Dương (huyện Hoài Đức)
Quán Viên Dương thuộc địa phận xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, Hà Nội.
“Đan Sơn tứ quán” là câu nói truyền miệng của người dân vùng Hoài Đức tự hào về quê hương mình có tới bốn ngôi quán của đạo Lão. Một trong “tứ quán” đó được xây dựng ở thôn Chiền, xã Đức Thượng với tên gọi dân gian là quán Chiền. Ngôi quán còn có tên chữ là Viên Dương quán.
Theo truyền thuyết và sự tích ghi trong bài minh trên quả chuông của Viên Dương quán thì ngôi quán được Tể tướng Lữ Gia (nhà Triệu) hưng công xây dựng cách ngày nay hơn hai nghìn năm cùng với quán Linh Tiên. Truyền rằng, Lữ Gia đi du hành đến vùng đất này thì gặp các vị tiên đang đánh cờ, Tể tướng bèn xuống ngựa bái yết, các vị tiên liền bay về trời. Nhân đó, Lữ Gia cho xây dựng các quán Lão để cho các vị pháp sư tu luyện. Sau đó, có vị pháp sư là Lý Trang tu đạo thần tiên ở bản quán. Lúc trẻ, vị pháp sư này sống rất kham khổ, dùng rau phỉ để ăn nhưng vẫn kiên trì ngày đêm tụng kinh bản hạnh Ngọc Hoàng. Khi cây rau phỉ hoá thành cây xương bồ mọc trên đá thì vị pháp sư đắc đạo thành tiên bay lên trời... Nhân đó mới đặt tên cho huyện là Đan Sơn.
Năm Ất Dậu (1585) đời Mạc Mậu Hợp thấy Viên Dương quán nằm trên một địa thế rất đẹp, tuy không cao song có nhiều ao hồ, có dòng Nhuệ giang dẫn thuỷ, quy tụ hợp lưu nên Hiển cung Đại phu của triều Mạc là Nguyễn Định mới cho hưng công tu tạo Thượng điện và Hậu đường. Việc này được khắc trong bia đá dựng năm Hưng Trị thứ 2 (1589) đặt tại quán. Từ đó về sau quán Viên Dương còn qua nhiều lần tu bổ sửa chữa. Toà Tiền đường hiện nay là kết quả của lần tu tạo năm Giáp Tuất (1934). Các hạng mục khác như Tam quan, gác chuông, Thượng điện, nhà Tổ đều đã được sửa chữa, phục hồi.
Quán Viên Dương có bố cục kiểu chữ “đinh”
Tam quan - gác chuông được làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Hạng mục này đã có tự xa xưa, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ do bị xuống cấp nặng không có điều kiện tu bổ nên đã dỡ đi. Tam quan hiện nay mới được phục hồi trên nền cũ theo kết cấu phổ biến của các Tam quan trọng các ngôi chùa Việt thời Nguyễn. Toàn bộ tầng dưới của Tam quan để trống, tầng trên treo quả chuông đồng “Viên Dương quán chung” đúc vào năm Gia Long thứ 16 (1817).
Toà Tiền đường gồm 7 gian 2 chái được xây dựng theo kiểu thức tường hồi bít đốc 2 mái chảy. Các bộ vì được làm theo lối kèo kẻ quá giang trốn hàng cột cái tiền. Sát tường hậu các gian bên được xây các bệ gạch là nơi toạ lạc của các bộ tượng Hộ pháp, Đức Ông, Thánh Hiền và tượng Hậu.
Toà Thượng điện 5 gian được nối liền với gian giữa Tiền đường kéo dài về phía sau tạo chuôi về. Các bộ vì Thượng điện được làm theo kiểu vì nóc chồng rường con nhị, vì nách kẻ suốt trên mặt bằng bốn hàng chân cột. Riêng bộ vì ngoài cùng được làm trốn hai cột cái, đặt trên hai thanh xà ăn mộng từ cột cái vì thứ hai ra tường hậu Tiền đường. Trong lòng Thượng điện được bài trí hương án và xây các bệ thờ bằng gạch làm nơi bài trí các pho tượng. Ở đây tượng thờ đã có sự đan xen giữa Đạo giáo với Phật giáo, song cơ bản vẫn là một Phật điện như: Bộ tượng Thập điện Diêm vương; bộ tượng Cửu Long và Phạm Thiên, Đế Thích; bộ tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn với hai vị Bồ tát; bộ tượng Ngọc hoàng với tứ ngự ở xung quanh gồm hai tượng Nam Tào, Bắc Đẩu ở phía trước, Đông Nhạc Đại Đế và nữ thần Hậu Thổ Hoàng Địa Kỳ ở hai bên lùi về sau một chút; bộ tượng Tam Thanh; bộ tượng Di Đà Tam tôn và tượng Quan Âm Thị Kính, Quan Âm toạ sơn. Những pho tượng này có niên đại chủ yếu ở các thế kỷ XVIII - XIX, được tạo hình tỷ mỷ, tinh tế bằng gỗ mít hay đất luyện. Điều đáng quan tâm là tượng Phạm Thiên và Đế Thích không đội mũ bình thiên như trong nhiều chùa mà lại được tạc như hai vị thần trong Đạo giáo có vẻ như Văn Xương và Đế Quân. Còn bộ tượng Tam Thanh ở đây đã có nhiều đổi khác về mặt tạo hình so với tượng ở các quán Hội Linh, Lâm Dương, Hanh Thông. Tượng Thái Thanh đã được thể hiện cụ thể là sự hoá thân của Lão Tử, là giáo chủ của đạo Giáo ở Trung Quốc, được thể hiện khác hẳn Ngọc Thanh và Thượng Thanh, trong hình dáng một cụ già tóc đen nhưng có râu rất dài và bạc phơ, Bộ mặt của ba vị đều được làm khá thực theo những khuôn mẫu đời thường, không còn trầm tư nữa mà mở mắt nhìn thẳng, bình thản, da thịt trắng hồng, y phục màu nâu sẫm, chỉ có chụp tóc thếp vàng tạo sự loé sáng ở đỉnh đầu như muốn nhấn mạnh đến trí tuệ... Phải chăng đây là một cách Việt hoá để đưa đạo Lão từ cao xa vào đời sống thôn dã trong dân gian?
Theo “Lược sử đạo Giáo Việt Nam” của Vương Khả có thể coi đạo Lão (đạo Giáo) đã du nhập vào Việt Nam ngay sau khi ra đời ở Trung Quốc gắn liền với chính sách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Quả chuông thời Ngô đúc năm 948 ở đình Đông Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội) ghi chép một số việc về sinh hoạt đạo Giáo và việc phụng thờ Thái Thượng tam tôn.
Quán Viên Dương với những tư liệu (dù ít ỏi) đã góp phần xác nhận sự tồn tại của quán đạo Lão - một loại hình riêng trong các di tích kiến trúc tôn giáo Việt cổ truyền.
Quán Viên Dương đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2002./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 02