Đền, nghè Thái Lai (huyện Mê Linh)
Đền, nghè Thái Lai thuộc xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh, Hà Nội.
Đền Thái Lai
Đền Thái Lai thuộc thôn Thái Lai, xã Tiến Thắng huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
Đền Thái Lai thờ Trần Công là huyện tể huyện Chu Diên, đồng thời là thân phụ Trần Nương - người đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Hán xâm lược bảo vệ đất nước. Hiện nay, nằm ở phía sau cạnh đền và bên phải từ ngoài vào đền là mộ Trần Công.
Đền Thái Lai được xây dựng vào đầu công nguyên. Đến thế kỷ XIX, đền được làm lại như ngày nay. Đền làm theo hướng tây nam giáp sông Cà Lồ. Kiến trúc của đền hình chữ “đinh” gồm hai toà: Tiền tế ba gian và Hậu cung hai gian. Cửa đền được trang trí tác môn hình rồng chầu mặt nguyệt, mái lợp ngói mũi. Kết cấu của hai toà Tiền tế và Hậu cung là kiểu tứ trụ lòng thuyền và chồng bồn con lợn.
Cũng như bao kiến trúc khác thời Nguyễn, trang trí ở đền Thái Lai được kết hợp nhuần nhuyễn giữa trang trí trên gỗ và đắp vẽ ngõa. Đặc biệt là trang trí ở tác môn, ván gió và cốn mê.
Tác môn ở đền Thái Lai gắn liền với hệ thống cửa. Tác môn dài 8,80m, cao 5,05m chia làm ba ô tương ứng với ba gian của Tiền tế và được chia làm ba tầng trang trí. Tầng dưới cùng lớn nhất bao gồm hết phần cửa. Hai bên đầu đốc đắp phù điêu nổi hình hai võ tướng đứng, nét mặt nghiêm trang, râu đen, mắt xếch long lanh, đầu đội mũ quả găng, mình mặc áo cẩm bào trang trí các đường diềm, hổ phù, chân đi hài cong, tay phải cầm cây thương ép sát vào mình. Tầng thứ hai có kích thước nhỏ hơn, hai ô hai bên trang trí đơn giản bằng các đường gờ soi đắp nổi và trổ thủng các hình chấn song. Ô giữa có các đường diềm gờ đều được tạo thành 6 hình bầu dục, trong đắp nổi hình hoa lá, bát bửu. Ở ô giữa này đắp nổi 4 chữ Hán: “Vạn cổ lưu phương”...
Tầng trên cùng, ô giữa cao hơn đó là một cuốn thư đắp đẹp, cân đối, phần giữa cuốn thư đắp nổi 3 chữ “Tối linh từ”. Trên cuốn thư đắp hình mặt nguyệt rất mảnh. Hai ô hai bên đắp thủng hai rồng cuốn chầu vào. Đây là hình rồng cỡ lớn, đuôi xoắn, mắt xếch, miệng hơi há ra, dữ tợn.
Qua tác môn là vào Tiền tế của đền, nối với tiền tế là Hậu cung. Chỗ tiếp giáp này được gắn bằng hai bức cốn gió. Ở hai bên, trên tạc long, ly, quy, phượng. Rồng ở đây được chạm lớn, chiếm gần hết bức chạm. Rồng có bờm tóc dài dữ tợn, mắt nổi lồi đen trắng, chân rồng choãi ra, bốn móng sắc bám chặt vào cánh mác trong tư thế nhìn xuống, đầu ngẩng cao rít mạnh một dòng nước hút lên. Trong dòng nước chạm một con cá chép cong mình cuốn quanh cột nước. Cạnh đó là rùa chân giơ lên, đầu ngước theo dòng nước. Kế theo là hình con ly, bờm tóc rậm rạp, đầu ngoảnh lại theo hướng đầu rồng, bốn chân choãi thẳng như đang phi nước đại. Phủ kín bức chạm này là các hình vân mây, sóng nước được tỉa gọt tỉ mỉ, tinh tế.
Ngăn cách giữa Tiền tế và Hậu cung là một tường xây gạch có 3 cửa. Phần trên các cửa này có một cốn mê hình tam giác cân. Toàn bộ cốn mê này được đắp nổi và tô màu các hình rồng, phượng, vân mây. Trên cùng của bức cốn giáp mái đắp một hình hổ phù rất lớn, bờm tóc dài rậm rạp, mũi chó, mắt lồi đen trắng, miệng càm chữ “thợ”. Dưới hổ phù đắp đôi rồng chầu mặt nguyệt. Hai bên rồng chầu đắp hình phượng ở tư thế đang bay, cánh xoè rộng, đầu phượng ngẩng, mắt lá dăm, mỏ vàng khoăm cắp dải lụa dài buộc bút sách. Phía dưới hình phượng, chỗ cửa ra vào là hình ly đang trong tư thế phi nhanh, đầu tóc dữ dằn, lưng cõng chữ “thọ”. Phủ kín bức cốn này là các hình vân mây, lá được tạo tác hết sức tỉ mỉ, mềm mại.
Ngoài ra, đền Thái Lai còn lưu giữ một số di vật, cổ vật độc đáo đặc biệt di vật là các đồ thờ bằng gỗ.
Nghè Thái Lai
Nghè Thái Lai nằm giữa thôn Thái Lai, xã Tiến Thắng.
Nghè Thái Lại thờ hai vị là Hùng Bảo và vợ là Trần Nương con gái huyện tể Chu Diên. Hùng Bảo và Trần Nương đã có công giúp Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh tan giặc Hán, giải phóng đất nước.
Nghè Thái Lai làm theo hướng tây nam, kiến trúc hình chữ “đinh”, gồm hai tòa Tiền tế và Hậu cung, mỗi tòa ba gian, nối liền với nhau kiểu chuôi về. Ngoài cửa là phần hè được xây thành tác môn, vòm ba tầng đắp rồng chầu mặt nguyệt, cuốn thư rất đẹp.
Về niên đại xây dựng thì nghè Thái Lai chưa xác định niên đại tuyệt đối. Kiến trúc hiện nay của nghè được làm vào nửa cuối thế kỷ XIX.
Quy mô của nghè Thái Lai nhỏ nhắn, toàn bộ diện tích sử dụng là 70m?. Vật liệu bằng gỗ tốt, gia cố chắc chắn xong kiểu thức đơn sơ - tứ trụ, quá giang gối tường. Các hoành, dui đều làm bằng gỗ theo mực thước cẩn thận, mái lợp ngói mũi.
Trang trí điêu khắc ở nghè Thái Lai tập trung chủ yếu ở hai mảng là tác môn và cửa võng nghi môn. Trong đó, toàn bộ tác môn dài 6,0m, cao 4,7m, chia làm ba ô tương ứng với ba gian của toà tiền tế. ô giữa to hơn, rộng 1,9m, hai ô hai bên bằng nhau rộng 1,7m. Ở tầng này là 3 ô cửa vòm không cánh, diềm ô ở hai bên trang trí nổi hình gạch múi bưởi và đường gờ. Diềm ô ở giữa đắp nổi hình hoa dây, giữa là nửa hình hoa cúc lớn, ba cửa được bổ 4 trụ, giữa là hai trụ tròn, hai đầu trụ vòng, trang trí hai câu đối bằng chữ Hán.
Qua một đường gờ lớn là đến 3 ô cửa tầng hai, tầng này bé hơn tầng một, hai ô bên trong trang trí đường gờ và giải ô thủng tạo hàng chấn song, ô giữa ở các viền được nắp các hình bầu dục và lá dày, khoảng trống ở giữa đắp nổi 4 chữ Hán “Âm dương hợp đức”.
Tầng trên cùng đắp cuốn thư to rất đẹp, trong đắp nổi 3 chữ “Tối linh từ”. Bên trên cuốn thư đắp hình mặt nguyệt, hai ô hai bên đắp hình rồng chầu vào. Sau rồng là hai cột trụ đắp hình con ly đang ở tư thế nhún mình như sắp nhảy. Qua tác môn là hệ thống 3 cửa, hai bên cửa đắp phù điêu nổi hai võ sĩ đứng.
Qua tác môn và hệ thống cửa là vào tiền tế rồi đến Hậu cung. Giữa Tiền tế và Hậu cung được ngăn cách bởi một bức tường hai bên cạnh trổ cửa vòm đi lại, gian giữa là cửa võng sơn son. Ba phần diềm của cửa với kỹ thuật chạm nổi đề tài là rồng nhưng ở những tư thế khác nhau: bề trên cùng chạm hình rồng chầu, hai diềm hai bên chạm hình rồng cuốn.
Nghè Thái Lai còn một số di vật, cổ vật độc đáo, đặc biệt các di vật là các đồ thờ bằng gỗ được chạm trổ công phu, tỉ mỉ thể hiện đôi bàn tay khéo léo, khả năng tư duy mang đầy tính sáng tạo của các nghệ nhân thủa trước.
Đền và nghè Thái Lai đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1996./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01