Miếu Đông Viên (huyện Ba Vì)
Miếu Đông Viên thuộc cụm di tích Đông Viên (đình, miếu Đông Viên, chùa Phúc Lâm), nằm về phía tây, cách trung tâm thủ đô Hà Nội gần 50km.
Miếu Đông Viên nằm trên địa vực đất Phong Châu, nơi các vua Hùng định quốc đô nước Văn Lang. Theo các nguồn tư liệu thành văn như thần phả, sắc phong, câu đối và hồi ức của nhân dân địa phương, thì miếu Đông Viên thờ thần Tản Viên, là một trong bốn vị thần bất tử biểu tượng cho sức mạnh và truyền thống đấu tranh anh dũng bền bỉ trong quá trình chinh phục tự nhiên và bảo vệ chủ quyền của dân tộc ta.
Thần Tản Viên có tên là Nguyễn Tuấn con của ông Nguyễn Công Hành và bà Đinh Thị Lĩnh, quê ở động Lăng Xương, huyện Thanh Nguyên, phủ Gia Hưng, đạo Hưng Hoá, Sơn Tây. Khi mới ra đời, Nguyễn Tuấn đã có vóc dáng cao lớn, vẻ mặt khôi ngô, tuấn tú khác thường. Năm Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi thì cha mất, năm sau hai mẹ con lên núi Tản cư ngụ và kết bạn với Thần nữ Ma Thị Cao Sơn. Hai năm sau, nhớ phần mộ của chồng, hai mẹ con lại quay về động Lãng Xương và đổi tên cho con thành Nguyễn Tùng. Năm 12 tuổi Nguyễn Tùng theo học Lý Đường tiên sinh. Mấy năm sau, chàng làm con nuôi thần nữ Ma La rồi đưa mẹ cùng về núi Tản, ở Tản Viên được một năm thì bà mẹ mất. Nguyễn Tùng ở lại núi Tản với mẹ nuôi ngày đêm chăm lo luyện tập võ công cứu giúp dân lành. Cảm kích trước tấm lòng của Nguyễn Tùng, Thái Bạch Thần Tinh Tử Vi Thiên tướng đã trao cho Linh trượng, thần chú để tiếp tục cứu giúp sinh linh, diệt trừ tai ương, địch hoạ. Thời gian ở Lăng Xương thần được nhân dân kính phục suy tôn là “Thần sử”.
Thời bấy giờ, vua Hùng thứ 16 là Hùng Duệ Vương đang muốn chọn người tài, kén làm phò mã cho con gái xinh đẹp Mỵ Nương. Sơn Tinh Nguyễn Tùng đã cùng với Thuỷ Tinh ở hồ Động Đĩnh thi tài bất phân thắng bại, sau lại thi đem các đồ sính lễ. Do đến sớm nên Nguyễn Tùng được chọn làm phò mã và đưa công chúa về núi Tản Viên. Tức giận vì đến chậm nên Thuỷ Tinh đã dâng lũ lụt và cùng các loài thuỷ tộc vây đánh Sơn Tinh trên núi Tản Viên. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng dữ dội, được sự ủng hộ của nhân dân, Tản Viên Sơn Thánh đã đẩy lùi được nước lũ, tai ương do thuỷ thần gây ra.
Cuối triều Hùng, giặc phương Bắc đem quân xâm lược nước ta, Tản Viên Sơn Thánh đã chỉ huy quân dân cả nước đánh tan quân xâm lược. Thắng trận trở về, Hùng Duệ Vương muốn nhường ngôi cho Tản Viên nhưng Tản Viên đã từ chối. Sau đó Thánh Tản đã cùng Duệ Vương bay về trời.
Giống như đình Đông Viên và chùa Phúc Lâm, miếu Đông Viên được xây dựng sớm trên khu đất cao, rộng rãi giữa làng, nhìn về phía tây. Niên đại khởi dựng của di tích không còn lưu lại nhưng qua những viên gạch trang trí hình rồng, hoa, lá và các mảng chạm khắc trên kiến trúc có thể khẳng định thời gian ra đời của di tích là thế kỷ XVII.
Miếu Đông Viên ngày nay có quy mô kiến trúc nhỏ gồm một nhà xây gạch, bốn mái lợp ngói ta. Nhà mở cửa bức bàn ở phía tường hồi, gian ngoài dùng để đựng đèn nhang và tế lễ. Gian trong có hệ thống sàn gỗ cao 1m20 làm cung cấm. Trong cung bày long ngai, bài vị và một số đồ tế khí như bát hương, hòm sắt. Đối diện với miếu về phía bên trái đình là một kiến trúc gạch nhỏ lộ thiên của tầng lớp nho sinh trong làng (khu vực này được các cụ già gọi là “văn chỉ”) và hệ thống tường bao, giữa xây một ban thờ cao 1m20, phía sau có bức bình phong trang trí hai con rồng lớn đang chầu mặt trời lửa, sát với văn chỉ là chùa Phúc Lâm.
Miếu Đông Viên là kiến trúc đặc trưng của hình thái tôn giáo tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của người Việt. Cùng với đình Đông Viên và chùa Phúc Lâm, miếu Đông Viên là trung tâm sinh hoạt văn hoá, tỉnh thần của một làng quê truyền thống. Miếu Đông Viên đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá năm 1991./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01