Cần tâm thế vững cho hội làng và người dự hội
Sau ba năm hội không được mở vì dịch Covid-19, xuân này, như để “bù lấp” cho sự “bí bức” của mấy năm, các làng quê háo hức hơn, từng bừng hơn với việc mở hội, không chỉ ở các làng vùng đồng bằng, mà cả ở các làng bản miền núi, của các tộc người thiểu số.
Song cũng vì được “sổ lồng” trên nền cũ, mà bên cạnh những mặt được là tạo ra không khí vui tươi, náo nhiệt, sự phấn khởi, tính cộng đồng của người dân các làng quê, mà hội (ngày nay được gọi là “lễ hội”) lại có biết bao điều bất cập từ bao năm qua vẫn không được khắc phục. Dạo qua thực địa một số hội mà tác giả đã quen từ lâu cũng cho thấy nhiều điều. Đó là, tế lễ vẫn là hoạt động chủ đạo, nổi bật suốt mấy ngày hội, không mấy hội có trò diễn, còn các trò chơi dân gian chỉ “điểm xuyết” giữa vô vàn trò chơi hiện đại. Đặc biệt, việc tuyên truyền về hội gắn với lịch sử và các giá lịch sử - văn hóa của làng, với các vị thành hoàng hầu như “vắng bóng”, nên người đến với hội, vào đình, đền khấn vái, cầu xin mà không biết vị thần mà họ đang khấn cầu có nguồn gốc và công tích ra sao…
Lướt tin trên các báo mạng hay mạng xã hội càng thấy thêm được nhiều điều phiền muộn. Chỉ với hội chùa Hương - hội được coi là dài nhất về thời gian và rộng nhất về không gian cũng đã thấy đó. Tâm lý “hóng hội” đã làm cho hàng vạn người ngay từ sáng ngày mùng 3 Tết (trước khai hội đến ba ngày) đã đến chùa. Rồi đến ngày khai hội, lượng khách tăng đột biến. Đấy cũng chính là cơ hội cho những “đội quân ăn theo” trong hội tranh thủ “trổ tài múa ma”. Ngày mồng ba Tết, khi xe điện đưa đón khách vào chùa chưa hoạt động, đã có la liệt xe ôm chèo kéo khách từ ngoài, gây cản trở giao thông. Từ sau ngày khai hội, lượng xe ôm không giảm, từ khu vực bến đò vào và trong những quán cóc xung quanh. Mỗi khi có xe ô tô chở khách chầm chậm vào bãi, tất cả xe ôm, rầm rập chạy ùa theo xe mời chào khách, dù khách ra hiệu không đi vẫn bị bám đuổi tới cùng. Những ngày sau, khách bị đeo bám từ Ba La (Hà Đông), cách chùa Hương đến vài chục cây số và được “báo giá” cho cả cuộc thăm chùa. Đến bến tập kết, chuẩn bị xuống đò vào hành trình tham quan, khách cũng được nhiệt tình mời mọc, chèo kéo bởi đội quân đông đảo, cũng với tình trạng ngã giá theo lối “chặt, chém”, bất chấp giá dịch vụ mà Ban tổ chức đã niêm yết. Du khách xuống đò còn phải trả thêm cho lái đò một số tiền nhất định, tùy vào đoàn đi đông hay ít người, thành ra tổng số tiền khách phải trả gấp đôi, gấp ba tiền vé theo quy định. Vào đến động Hương Tích, nơi được coi là trung tâm và linh thiêng nhất của hội chùa Hương, sự đông đúc khiến khách phải nhích từng mét để xuống động thắp hương khấn Phật. Rồi biết bao hành vi phản cảm đã xảy ra ở chốn thiêng này, như đưa tay hứng những giọt nước từ thạch nhũ nhỏ xuống, để được may mắn, được trời phật ban lộc, rồi lấy nước xoa lên mặt hoặc uống luôn tại chỗ, có người lại dùng tiền xoa lên đá để cầu may. Và ngày 12/2, hai thanh niên ở Hải Phòng đi ngược chiều lên động, gây cản trở dòng người đi, bị nhắc nhở đã đánh lại bảo vệ, gây thương tích, nên bị tạm giữ!
Một hội khác, gây tốn lời của báo chí và mạng xã hội những ngày là hội Ná Nhèm ở xã Trấn Yên (huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) với những hành vi cực kỳ phản cảm, như chàng trai “cưỡi” lên vật thiêng - biểu tượng của hội (sinh thực khí của nam giới), nhiều cô gái cũng sờ mó, thậm chí có cô còn đưa lưỡi liếm cả đầu vật thiêng này (!?)…
Vậy, vì sao có tình trạng lộn xộn và những hành vi phản cảm trên?
Trước hết là, từ mấy chục năm trước, khi các hội truyền thống được mở trở lại, ngành văn hóa chưa định hướng đúng, ngay từ khái niệm. Xưa kia, cha ông ta chỉ dùng khái niệm “hội” (gắn với một làng, cụm làng, một vùng cụ thể), như hội Cổ Loa, hội Lim, hội Gióng, hội Đền Hùng, không nói “lễ hội” gắn với các cụm từ địa danh trên đây, hay bất kỳ làng quê nào khác. Cha ông ta cũng phân định rõ, trong hội làng có “hội lệ”, diễn ra vào những năm mùa màng bình thường, chỉ có tế lễ là chính; còn đại đám, tức “mở hội”, hay vào hội hay “vào đám” chỉ tiến hành vào những năm “phong đăng hòa cốc”, tức năm thật sự được mùa; ngoài tế lễ, đám rước long trọng, còn có các trò diễn, diễn lại sự tích thành hoàng, các trò chơi dân gian và những tiếng trống chèo lay động của các gánh hát về làng biểu diễn.
Nhưng từ khi các lễ tiết thờ cúng, các hội hè được phục hồi, đã ghép hai từ “Lễ” và “Hội” làm một, nên dẫn đến những nhầm lẫn, cả trong chỉ đạo tổ chức hội và trong suy nghĩ, cách hành xử của người đến với hội. Có hội không có trong thực tế, nhưng người ta lại “đôn” lên thành “lễ hội”, điển hình là chính “Lễ hội chùa Hương” này, thực chất chỉ là lễ mở cửa rừng của dân làng Yến Vĩ ở đền Ngũ Nhạc và của các đoàn người tấp nập “vãn cảnh chùa Hương”, vì ở đây chẳng thờ Thành hoàng, không có đám rước, trò diễn, các trò chơi dân gian… như ở bao hội làng vào năm đại đám. Có “hội” chỉ là lễ (tế lễ), yêu cầu nghiêm cẩn, nghiêm túc cả của cả người tổ chức và người đến dự, mà bản chất không phải là hội thật sự, như Lễ Tịch điền ở Đọi Sơn (tỉnh Hà Nam).
Những hành vi phản cảm của người dự hội ở hội Ná Nhèm (và bao hội khác) có nguyên nhân chính là không bảo vệ được “ngũ thiêng” (5 yếu tố thiêng không trong hội. Đó là không gian thiêng (đình, đền, miếu…), điểm thiêng trong không gian thiêng (chẳng hạn, hậu cung hay nơi diễn ra trò diễn sự tích thành hoàng), vật thiêng (chẳng hạn, sinh thực khí trong hội Ná Nhèm), thời điểm thiêng và hành động thiêng (động tác, thao tác liên quan đến sự tích thành hoàng hay “hèm”). Trải bao đời, hội cổ truyền được duy trì và luôn mang tính hấp dẫn chính vì các yếu tố thiêng đó được bảo vệ và người dự hội luôn tôn trọng (theo phong tục, theo văn hóa ứng xử và cũng sợ bị “thánh vật”). Ngày nay, Ban tổ chức hội ở nhiều địa phương không hiểu được điều đó nên không có biện pháp bảo vệ, để người không có phận sự, người dự hội xâm phạm. Người đi dự hội phải thấy được điều đó để có những hành xử đúng: Dù là hội ở bất kỳ quy mô nào, những người đến dự không chỉ phải hiểu (hoặc tìm hiểu) hội, mà còn phải luôn giữ tâm thế, tư thế của mình trước đám đông.