Đình Bạch Trữ

Danh thắng & Di tích Hà Nội - Ngày đăng : 16:31, 21/12/2022

Đình Bạch Trữ xây vào cuối thế kỷ 17, thờ phụng Mỵ Nương (phu nhân Sơn Thánh Tản Viên) và Hoàng Cống tức danh tướng Cống Sơn, quân sư của Nhị vua Hai Bà Trưng) làm thành hoàng làng.

Nằm ở phía bắc huyện Mê Linh, ven sông Cà Lồ bốn mùa nước biếc, ranh giới tự nhiên của 2 huyện Mê Linh - Hà Nội và Bình Xuyên - Vĩnh Phúc, xã Tiến Thắng là một địa danh được nhiều người biết đến không chỉ nơi đây là một vùng quê với những trại vải ngon nổi tiếng, mà chính nơi đây dấu tích lịch sử đã in đậm ở mỗi thôn làng.

Từ Quốc lộ 2 đến ngã ba Tiền Châu (thuộc thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc) đi theo đường 35 chừng 1km là đến thôn đầu tiên của xã Tiến Thắng - làng Bạch Trữ.

Các cụ già ở đây truyền lại cho con cháu rằng: Vào thời Hùng Vương dựng nước, Ngọc Hoa công chúa con vua Hùng Duệ Vương nhân một chuyến đi du ngoạn thăm cảnh nước biếc non xanh, đến nơi này thấy ngút ngàn một màu hoa cỏ Trữ trắng ngọc, trắng ngà, bèn đặt tên cho làng là Bạch Trữ. Bà dạy dân Bạch Trữ cấy lúa, trồng bông, chăn tằm, dệt vải. Ơn người đã tạo nghiệp cho dân làng, khi bà mất đi, dân Bạch Trữ lập miếu thờ.

Các cụ còn truyền lại cho con cháu rằng: Vào năm 40 sau Công nguyên khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, bên cạnh các tướng tài ba như Lê Chân, Thánh Thiên, Ả Tắc, Ả Di, Vĩnh Huy, Liễu Giáp, Nàng Tía, Bát Nàn... còn có một người đã hiến dâng trọn vẹn cuộc đời cho cuộc khởi nghĩa - đó là mưu sĩ Cống Sơn.

Theo Ngọc phả đình Bạch Trữ, Cống Sơn sinh ngày 10 tháng giêng năm thứ 3 sau Công nguyên quê ở đất Ái Châu, phủ Trường An, động Hoa Lư. Vốn là người thông minh xuất chúng, lại tinh thông võ nghệ, luôn lấy điều nhân đức để răn mình. Khi phất cờ khởi nghĩa, Trưng Trắc đã vời ông làm quân sư, cậy việc ngày đêm rèn binh mã, thảo hịch đi khắp các phủ huyện kêu gọi hào kiệt 4 phương về tụ nghĩa dưới cờ. Khởi nghĩa thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, ban thưởng cho tướng sĩ, muốn dân. Bà đã phong cho Cống Sơn là Cống Sơn quân sư, thực ấp ở Bạch Trữ trang, huyện Chu Diên. Bà dạy dân Bạch Trữ rằng: Cống Sơn quân sư sống làm thầy dạy, chết làm Thành hoàng làng, cho đón gia quyến ông về đây lập nghiệp, chuẩn miễn cho dân Bạch Trữ không phải đi phu và các dịch khác.

Tưởng nhớ đến công lao của Ngọc Hoa công chúa và Cống Sơn quân sư, về sau dân Bạch Trữ đã lập đình thờ hai vị.

Đình Bạch Trữ là một trong những ngôi đình lớn và cổ của cả vùng đồng bằng sông Hồng. Đình được biết đến với quy mô kiến trúc đồ sộ nhưng lại rất thanh tao với sự độc đáo về kiến trúc, chứa đựng nhiều tác phẩm điêu khắc gỗ dân gian hết sức đặc sắc, thể hiện đỉnh cao về nghệ thuật kiến trúc của đình làng Việt Nam thời Lê Trung hưng.

Kết cấu của đình gồm 3 toà Tiền tế, Đại đình, Hậu cung và 2 Ống muống, tạo nên hình thức mái theo kiểu chữ “vương”, nền chữ “tam”.

Trước đình có hồ bán nguyệt, sau hồ là bình phong kiểu cuốn thư và nghi môn tứ trụ. Qua một khoảng sân là đến toà Tiền có kiến trúc 5 gian, 2 chái với bộ mái 2 tầng hoành tráng. Ở đây còn lưu giữ khá nguyên vẹn những nét nghệ thuật điêu khắc của thế kỷ XVII. Nhiều bức cốn bến đục chạm hình rồng, lân, vân mây... Đặc biệt, ở giữa toà này có các bức cốn mê thể hiện Tứ linh trong ước nguyện cầu phúc xưa: rồng cuốn thuỷ, phượng hàm thư, long mã và rùa.

Toà Đại đình 3 gian 2 chái, 2 dĩ. Các bức đục chạm tập trung ở 2 cốn ngoài của gian giữa, các đầu dư chính và một số kẻ. Đề tài chạm khắc chủ yếu là rồng. Đề tài về con người tuy không nhiều, nhưng lại rất đáng quan tâm. Bức cốn ngoài bên trái gian giữa, ở con rường trên cùng, được đặt trên mình rồng thân rắn không vẩy là hình đôi trai gái tự tình mà nam là một ông già quắc thước, còn nữ là một cô gái còn trẻ - một mối tình thần thánh sẽ đưa đến kết quả nảy sinh thánh nhân theo nhận thức của người xưa. Ở một đầu kẻ trước của gian bên trái lại có cảnh một ông lão ngồi câu cá với giỏ vịt để bên cạnh. Hình tượng này rất gần gũi với nghệ thuật thế kỷ XVIII. Ngoài ra còn nhiều bức đục chạm đặc sắc khác.

Những hình tượng có tính mạnh bạo hay dân dã được thể hiện ở đây đều cho thấy sự gần gũi với cảnh sinh hoạt đời thường nơi thôn dã, nó mang ý nghĩa ước nguyện cầu phồn thực của con người mong cho cuộc sống sinh sôi nảy nở, cho mùa màng bội thu. Bên cạnh sự phong phú về nội dung, các bức chạm đã thể hiện trình độ cao về nghệ thuật chạm khắc với kỹ thuật chạm lộng, chạm bong hết sức tinh tế.

Toà hậu là một Hậu cung kép với Hậu cung chính nằm gọn trong không gian 4 cột cái gian giữa, được bao ván kín, có sàn thờ, được nâng cao và nằm lọt trong toà Hậu cung 5 gian tường bít đốc. Một điểm đáng chú ý là trên bàn thờ chính, phù trợ 2 bên là 8 vị tướng hầu được vẽ dưới hình thức tả văn hữu võ; quan văn đội mũ cánh chồn chếch ngắn cầm những hòm sách, bút, quạt; quan võ đội mũ kim khôi vác đại đao.

Đền Bạch Trữ còn lưu giữ nhiều di vật có giá trị lịch sử - văn hoá.

Về hiện vật, tại đình Bạch Trữ có 2 ngai thờ, án gian đều được sơn son, thếp vàng, đồ bát bửu, cây quán tẩy được đục chạm hết sức tinh vi cũng được sơn son thếp vàng còn như mới; nhiều đồ sứ có giá trị. Đặc biệt còn có 2 cỗ kiệu bát cống có giá trị về nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc, thể hiện rõ nét tài hoa cha ông ta để lại.

Về tư liệu, hiện còn cuốn Ngọc phả do Hàn lâm viện Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào tháng 3 - niên hiệu Hồng Phúc thứ nhất (1552); 11 tờ sắc phong cho Ngọc Hoa công chúa và Cống Sơn quân sự từ đời vua Chính Hoà đến đời vua Khải Định (1916 - 1925).

Đi sâu tìm hiểu hơn nữa về nghệ thuật, về các giá trị văn hoá vật thể ở đình Bạch Trữ chúng ta sẽ có được những tri thức quý báu về lịch sử văn hoá cũng như các phong tục, tập quán hay những quan niệm hết sức đặc sắc có thể coi là tinh hoa văn hoá của người xưa tại vùng đất này.

Đền Bạch Trữ đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1993.

Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01

Phương Anh (t/h)