Nỗi cô đơn hiện sinh trong thơ Hoàng Vũ Thuật
Lý luận - phê bình - Ngày đăng : 14:55, 01/12/2022
Có lần Hoàng Vũ Thuật tự bạch: "Với tôi, hầu như tất cả những sản phẩm sáng tạo đều xuất phát từ một chuyện buồn, một niềm cô đơn, vật vã. Câu thơ vui cũng hình thành từ nước mắt. Cô đơn là một đặc tính của con người. Trong ý niệm tương đối, cô đơn thuộc phạm trù cái đẹp. Tôi coi trọng cái riêng con người, chất cá thể con người, nên có lúc bài thơ bật ra trong trạng thái vô thức. Thơ chính là mảnh tâm trạng, cõi riêng thân phận, một cảnh huống đơn độc của con người". Có lẽ cũng chính vì điều này nên trong thơ của ông thường thấy hình bóng của những con người, những phận đời, số kiếp cô đơn.
Trên giá đỡ những trang sách mở ra số phận cay đắng hạnh phúc
chiến tranh hòa bình
Trên bả hư danh thừa mứa quyền uy hăm hở dối lừa
ngông nghênh tăm tối
Trên pháp trường lởn vởn hồn oan xơ xác mong nhìn thấy ánh sáng
Trên sương mù bóng mẹ liêu xiêu sớm khuya đi về quang gánh oằn vai
Trên giường chiếu khổ đau bần hàn lam lũ hết đời này sang đời khác
Trên mâm cơm đầu mùa bung nở ríu rít trẻ con bát đũa lanh canh
Anh đợi
Trên hứng khởi người tìm bóng tối với những ngôi sao cuồng chết
bên gốc dứa dại
…
Trên cánh bay giấc mơ hoang tưởng và hiện thực chồng chéo tan chảy
Trên tuyệt vọng rơi rơi rơi hun hút chín tầng âm u
Anh đợi
…
Đứa bé ngây ngô đợi bụt hiền hiện ra ban phép lạ
Anh đợi
(Anh đợi)
Trong cuộc sống không ai không mong cho mình được sống hạnh phúc, tự do nhưng ước nguyện ấy không phải ai cũng đạt được. Có những phận đời bị đẩy vào chiến tranh loạn lạc, có những người mẹ sớm khuya đi về quang gánh oằn vai, có những người khổ đau bần hàn lam lũ hết đời này sang đời khác, lại có những người vì tuyệt vọng mà rơi rơi rơi hun hút chín tầng âm u… Bằng trải nghiệm của mình, nhà thơ đưa ra quan điểm về những cuộc chiến tranh tàn khốc, về những trò chơi quyền lực tăm tối. Đồng thời, ông đã nhìn thấy sự bất lực, cô đơn của những phận người bị đẩy vào lửa đạn chiến tranh, những con người yếu thế.
Cái chết được thử nghiệm
I rắc
Giờ thì Li Băng
Máu xoáy sẹo đen lòng biển
Những ngày thảm khốc tôi vùi chân bên dòng Nêva
Chẳng đủ để răn dạy kẻ khác
Cuộn tròn mình lo lấy thân xác hơn chăng
Ngày anh tôi không về
Tôi đứa trẻ chỉ biết hát
(Cái chết)
Nỗi cô đơn trong thơ Hoàng Vũ Thuật được chắt lọc từ những gì nhà thơ cảm nhận được trong cuộc sống hiện tại, trong quá khứ và cả tương lai với những sự liên tưởng, so sánh:
những cánh tay chọc thủng gạch ngói
những chiếc nón vẫy mưa
những tiếng kêu đứt đoạn
những hốc mắt đói nhìn
mỏi mòn đêm tối
kiệt quệ rạng ngày
...
mẹ thắp hương chờ
những đứa con không trở lại
những đứa con khát sữa gào lên khuya khoắt
sạp giường lạnh tanh
đôi vòng tay trơ rỗng
sách vở trộn bùn đất
rơm rạ trộn thây người
(Lá cứ hồn nhiên)
Lá thì cứ hồn nhiên, nhưng không lẽ mỗi con người trong kiếp đời này lại có thể hồn nhiên như lá? Không, con người có ý thức và sự cô đơn thường sẽ tác động mạnh đến tâm thức của mỗi người. Khi người mẹ mất đi những đứa con sẽ đau đớn, cô đơn, quằn quại và quãng thời gian tương lai của mẹ sẽ là đối diện với sạp giường lạnh tanh/ đôi vòng tay trơ rỗng, cuộc sống của những đứa con khát sữa sẽ ra sao khi thế giới ngoài kia là sách vở trộn bùn đất/ rơm rạ trộn thây người? Bằng lối gợi và liên tưởng, Hoàng Vũ Thuật đã nói lên nỗi đau nhân thế, đây cũng chính là cảm thức hiện sinh sâu sắc trong thơ của ông.
Không chỉ là những phận đời phải trải qua chiến tranh, loạn lạc mà ngay cả những hình ảnh rất đời thường, Hoàng Vũ Thuật cũng nhìn thấy được nỗi cô đơn trong tâm khảm, trong cuộc sống của từng số phận.
mười lăm phút một gương mặt hiện ra
Á Úc Mỹ da đen da trắng
không giống nhau
nhưng không hề khác
trên trang giấy phẳng phiu tuyết trắng
mười lăm phút gương mặt hiện ra
mười lăm phút vòng quanh năm châu lục
Trung Hoa Đan Mạch Thái Bình Dương
thế giới hiền hòa yên ả
mười lăm phút dư thừa đói nghèo khôn dại
chiếc gương phản chiếu hành tinh
trẻ và già gái và trai hiền và dữ
tóc nâu tóc vàng tóc xanh
cuối mùa thu rừng phong trút lá
trơ trọi mình họaH sĩ giữa khung đêm.
(Họa sĩ trong công viên Kultura)
Họa sĩ trong công viên Kultura giống như một khắc họa về cái tôi nhìn đời bằng lăng kính hiện sinh. Họa sĩ cảm nhận được sự tồn tại của những người khác, với những diện mạo, gốc gác, độ tuổi khác nhau. Họ cùng đến trong thế giới này, "không giống nhau/ nhưng không hề khác", vì họ cùng chịu chung một bàn tay run rủi của số phận. Người họa sĩ khắc họa lại những gương mặt ấy. Nhưng sau cùng, mọi sự gặp gỡ với những con người trong thế gian cũng sẽ phai đi. Tha nhân và bản thể vẫn chỉ là những tồn tại riêng biệt. Cuối cùng còn lại chỉ còn "ta với ta" trong khung cảnh tồn tại riêng mình. Một không gian hiện sinh thực sự tinh tế đã được xây dựng bằng lối thơ giản dị của Hoàng Vũ Thuật.
một chiếc ghế bện mây bên chiếc ghế bện mây cũ
hai mái tóc ông chải sáng
rẽ đôi chút khí trời hiếm hoi
bức tranh quê Đông Hồ bày nơi ngưỡng cửa
và nàng như ngày tháng xếp chồng lên nhau
ẩn trong gam lạnh
cứ thế ban mai hay chiều tà ông mở ra cuộn lại
người qua ngắm nghía bỏ đi
không mặc cả hỏi han
ông hiểu chẳng ai nhìn thấy vẻ đẹp nàng sau làn vải mộc
lẽ nào rao bán hoặc đem biếu không
hay treo giá tận chót cùng đi nữa
ông đưa về làm của quý riêng mình
vì ông biết những đêm dài nàng bay ra cùng khói sương buốt giá
ánh sáng
hơi thở
tiếng đàn
bởi nàng là bức tranh Đông Hồ ấm áp khắc họa cuộc đời ông
(Bức tranh mùa đông)
Nhìn rộng ra, thân phận cô đơn của người họa sĩ trong đêm thu hay sự cô đơn vì không có người hiểu để chia sẻ, thưởng thức nét đẹp văn hóa, nét đẹp của tranh Đông Hồ như ông già cũng chính là nỗi cô đơn thường thấy của con người trên thế gian. Con người, ai cũng muốn được quan tâm, chia sẻ nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng có thể nhận được tình cảm của những người xung quanh để rồi chúng ta tự mình lạc lõng, cô đơn trong nhân thế. Đây chính là một hiện thực được Hoàng Vũ Thuật nhìn nhận và khai thác rất tinh tế.
Lạc lõng trong cuộc sống đã là một sự cô đơn đáng sợ. Nhưng còn đáng sợ hơn khi cuộc sống làm cho con người ta cảm thấy chán ngán, thấy mất niềm tin vào nó, để rồi mỗi người tự sống với cuộc sống riêng của mình, bất lực hoặc thờ ơ trước những đắng cay, hạnh phúc, xảo trá, lọc lừa, tội ác… thờ ơ trước tất cả những gì xảy ra xung quanh mình và sau đó lại tự hỏi mình: Ta là ai?:
chán ngán chuyện ô uế hàng ngày diễn ra trên tờ báo to
đứa trẻ vừa bị kẻ hãm hiếp nơi ngã ba thành phố
muốn đi tìm lại cái bản mặt thật mình
cho ngày mai kịp đến với cõi thiền ngôi chùa cổ
những viên ngói mở mắt nhìn
…
cái thẻ bài nhà tu hành nói với tôi
anh là anh không là ai khác
chính anh đã làm nên cuộc sống của mình
còn bạn thì sao
hỡi người bên kia nửa trái đất
bạn học được gì khi sự xảo trá đang ngự trị
lên mỗi sợi tóc trắng chúng ta
(Sự xảo trá đang ngự trị lên mỗi sợi tóc trắng)
Vâng, ta chính là ta không là ai khác, chính chúng ta đã làm nên cuộc sống của chính mình. Nhưng cuộc sống của mỗi người có do họ toàn quyền quyết định? Nếu như có thì cũng biết phải làm thế nào cho đúng, cho xứng với kiếp người? Biết về đâu khi dòng sông ngang qua đời/ ta/ không bọt/ về đâu những con sóng vỗ chân cầu/ đừng nói nữa/ chiếc hộp trà đêm đêm/ đối diện/ dấu đi/ thi thể ngàn năm/ trôi / sóng truyền kiếp/ chiều nay/ dạt phía chân cầu (Trà đạo). Những câu hỏi đầy trăn trở: về đâu, về đâu cứ liên tục xuất hiện, liên tục vang lên mà tìm được ở đâu, ở ai một lời đáp, một câu trả lời? Để rồi ta cô đơn đối diện với chính mình với hàng trăm ngàn câu hỏi. Có người tìm ra đáp án, tìm ra lối đi, tìm được chính mình đó là những người may mắn. Tuy nhiên, điều may mắn ấy không phải sẽ đến với tất cả mọi người, bởi có những người đi trọn một năm vẫn không/ ra khỏi vùng ám tượng để rồi lưỡi hái thần chết/ đốn ngã linh hồn/ đố kỵ mờ xa gương mặt/ chữ nghĩa đánh bóng mạ kền… /đi trọn một đời vẫn không/ ra khỏi cuộc tranh giật/ nghìn cánh tay giơ cao/ biểu quyết/ không biết nữa cái gì xảy ra… (Ý nghĩ vụt hiện).
Dường như tất cả những bài thơ của Hoàng Vũ Thuật đều mang lại cảm giác buồn, cô đơn. Có khi là nỗi cô đơn chung của nhân loại, có khi lại là những nỗi niềm riêng, những cô đơn của một con người lạc lõng trong cuộc đời. Nó được ông diễn tả bằng nhiều hình ảnh, tứ thơ độc đáo. Đọc thơ ông người đọc như thấy rằng nỗi cô đơn đó là của chính bản thân mình, là nỗi buồn của chính mình. Ví dụ như trong Bài thơ ban mai ông viết:
mùa đông đến bất ngờ
không báo trước
tôi không kịp mặc áo ấm quàng khăn đi tất
như sự lạnh lùng của em
không báo trước
tôi đi qua những hoàng hôn
những trận mưa đêm đột biến
những lối phố rộng rênh
những quảng trường quá hẹp
những chiếc quán lẻ loi
tôi đi như một lời độc thọai
….
Tôi đã qua một mùa đông lạnh nhạt
một mùa đông không báo trước
như dáng em ngồi đan áo trong khuya
…
tôi cần sự bù đắp
sự bắt đầu
nhưng không bao giờ là sự cuối
(Bài thơ ban mai)
Ở đây, người đọc có thể cảm nhận, thấm thía khi tôi đi qua những hoàng hôn - những trận mưa đêm đột biến rồi những hình ảnh lối phố rộng tênh, những chiếc quán lẻ loi càng làm cho con người trở nên nhỏ bé trong không gian và còn nỗi buồn nào buồn hơn khi trong mùa đông lạnh giá lại thấy mình, lại phát hiện ra mình đang đi như một lời độc thọai. Cũng từ đó, con người cô đơn ấy cảm thấy cần một cái gì đó để làm cho lòng mình ấm lên, đó có thể là sự bù đắp, sự bắt đầu nhưng không bao giờ là sự cuối.
Là một con người tinh tế, nhạy cảm, Hoàng Vũ Thuật đã lắng nghe con tim mình, lắng nghe tiếng nói của mình qua những trải nghiệm cá nhân. Đồng thời, với nhãn quan tinh tường nhìn nhận quy luật cuộc sống thông qua các sự kiện, nét văn hóa, các biến động lịch sử, ông đã khắc họa nên những nỗi cô đơn hiện sinh của con người và chính mình.