Hoài niệm về hồ Trúc Bạch
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 11:53, 06/05/2009
Xưa kia Hồ Trúc Bạch, Hồ Tây với cả Hồ Cổ Ngựa (ở và o khoảng phố Hà ng Than bây giử, đã bị lấp thà nh bằng địa từ khi Pháp mới chiếm Hà Nội) đửu nối liửn nhau. Đó chính là một đoạn dòng cũ của sông Hồng, vử sau người ta đắp ngăn thà nh ba hồ. Sách Long thà nh dật sự có ghi rõ rằng: Hồ Tây mặt nước rất rộng, đáy sâu và thường có sóng lớn. Riêng có phần hồ thuộc địa phận là ng Trúc Yên là nước nông, ít sóng, nhiửu bùn tốt nên cá hay tụ hội vử đây.
Năm Vĩnh Tộ thứ 2 đời Lê Thần Tông (1620), nhân dân hai là ng Yên Phụ và Yên Quang (khu vực đầu phố Cửa Bắc đến đửn Quán Thánh ngà y nay) hợp sức với dân là ng Trúc Yên, đắp một con đập từ đầu là ng Yên Phụ ở phía bắc nối với đầu là ng Yên Quang ở phía nam để chắn giữ lấy cá là m nguồn lợi chung cho cả ba là ng. Đập ấy gọi là Cố Ngự Yển, tức đập Cố Ngự, có nghĩa là giữ vững. Để kỷ niệm việc nà y, người ta có dựng một bia lớn ở phía đầu là ng Yên Quang. Đập Cố Ngự mỗi năm lại được đắp rộng ra, thà nh một con đê, rồi thà nh đường đi. Sau nà y, có lẽ do việc viết chữ Pháp hoặc quốc ngữ không có dấu, người ta đọc là Cổ Ngư thay cho Cố Ngự.
Cũng theo sách Long thà nh dật sự, thì Hồ Trúc Bạch thuộc địa phận là ng Trúc Yên, nhân dân trong là ng có nghử là m mà nh trúc, nên các nhà dân đửu trồng trúc thà nh rừng, để là m nguyên liệu. Đời vua Lê à Tông (1735 - 1738), chúa Trịnh Giang lấy một khu đất của là ng Trúc Yên sai quan cho xây một toà biệt điện , gọi là Trúc Tâm Viện là m nơi hà ng tháng khi rỗi việc thì đến tĩnh dườ¡ng. Chỉ được và i năm, biệt điện nà y thà nh một lãnh cung để an trí các cung nữ bị tội. Các cung nữ bị an trí ở đó không được cấp bổng lộc mà phải tự là m việc kiếm sống. Lúc đầu họ chỉ được cấp một bộ khung cửi và một số tơ tằm để dệt lụa. Họ phần nhiửu là người khéo tay, nên dệt lụa khá đẹp, được các nơi rất ưa dùng. Rồi nhân dân gọi thà nh quen thứ lụa của các cung nữ dệt là "lụa là ng Trúc", tức "Trúc Bạch" do đó mà thà nh tên hồ, giữa hồ có một cái đảo nhử có ngôi đửn Cẩu Nhi từ thời Lý nhưng đã bị phá hủy từ lâu.
Hồi đó đã có những câu ca nói lên cái khéo, cái đẹp của lụa là ng trúc:
Lụa là ng Trúc vừa thanh vừa bóng/May áo chà ng cùng sóng áo em/Chữ tình gắn với chữ duyên/Xin đừng thay áo mà quên lời thử.
Cũng từ đó, phần Hồ Tây phía là ng Trúc Yên cũng được gọi là hồ Trúc Bạch. Thời ấy, triửu chính Lê - Trịnh ngà y thêm đổ nát. Chính sự nổ ra những cuộc biến động lớn, số cung nữ ở là ng Trúc Yên không ai đoái hoà i đến nữa. Mỗi cung nữ đửu có số phận hẩm hiu.
Năm Chiêu Thống thứ hai (1788) vì muốn báo thù, Chiêu Thống cho đốt hết cung điện của chúa Trịnh, Trúc Tâm Viện cũng bị thà nh tro tà n... Năm Quang Trung thứ 3 (1790) nhà thơ Ngô Ngọc Du đã tới viếng cảnh xưa và là m mấy vần thơ Hán văn thể hiện niửm thương tiếc của những người cung nữ đối với phận tình duyên lỡ là ng:
Nửn xưa viện cũ còn đây/Rêu phong bia gẫy ai rà y hửi han/Gió hồn lay bụi trúc tà n/Tưởng hồn oán nữ thở than nỗi lòng.
Đê Cổ Ngư sau mở rộng thà nh đường Cổ Ngư. Xung quanh Hồ Trúc Bạch cũng giống Hồ Tây có nhiửu di tích lịch sử có giá trị đặc biệt là đửn Quán Thánh với bức tượng đồng đen Huyửn Thiên linh thiêng.
Sau khi hòa bình lập lại, cùng với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của miửn bắc, thanh niên Hà Nội và nhân dân cùng góp công sức tạo thà nh con đường mới, ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch và là m đường hoa. Ngà y 16 tháng 10 năm 1958, Bác Hồ đến thăm công trường và đặt tên mới cho đường là đường Thanh Niên. Đường Thanh Niên hiện nay trở thà nh một con đường thân quen đối với mỗi thanh niên Hà Nội. Những chiửu hè, nơi đây trở thà nh nơi để nghỉ ngơi, tìm thấy một khoảng không gian thanh bình, thả hồn theo cảnh đẹp nên thơ ngay trong lòng thà nh phố.