Dịch giả Hà  Nội 'mở đường' cho chữ quốc ngữ ở VN

Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 15:32, 21/09/2009

(NHN) Trải qua một quá trình lịch sử­ lâu dà i, Thăng Long “ Hà  Nội là  kinh đô bậc nhất của các triửu đại phong kiến Việt Nam. Những danh sĩ tà i hoa với áng văn chương cổ đã trở thà nh niửm tự hà o của vùng đất kinh kử³..

Khi Hà  Nội chỉ là  một tỉnh Bắc Kử³, dưới sự xâm lược của thực dân Pháp thì nó cũng có sự biến đổi mà  trước hết nó trở thà nh một trung tâm phát triển một ngôn ngữ mới “ chữ Quốc ngữ.

Sự ra đời của chữ Quốc ngữ không phải ngẫu nhiên mà  cũng không phải do sự hảo tâm của thực dân Pháp trong quá trình cai trị nước Việt. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự ra đời chữ Quốc ngữ chính là  phục vụ cho việc truyửn đạo của các tu sĩ khi đến nước ta. Các giáo sĩ đã dùng chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt và  cho đến Alexandre de Rhodes với tác phẩm Bà i giảng giáo lý Tám ngà y cho kẻ muốn rử­a tội và o ngà y đạo đức chúa trời đầu tiên bằng tiếng Việt và  cuốn từ điển Việt “ Bồ - Latinh đầu tiên xuất bản năm 1651 đã chính thức đánh dấu mốc ra đời của chữ Quốc ngữ.

Tuy nhiên, do mục đích Latinh hóa chữ viết của ta để là m công cụ truyửn đạo nên nó không có tác động lớn đối với việc phát triển văn hóa dân tộc. Do tính chất bảo thủ chỉ biết chữ của thánh hiửn nên không phát triển mà  còn ngăn cản sự hình thà nh của chữ viết mới.

Thế nhưng, ngay Hà  Nội với những tư tưởng tiến bộ của các danh sĩ đương thời thì chữ Quốc ngữ đã dần được coi trọng và  đử cao trong cuộc sống. Công lao truyửn bá và  phát triển chữ quốc ngữ sâu rộng trong đời sống người dân không thể không kể đến Nguyễn Văn Vĩnh, một nhà  tân học, nhà  báo, nhà  văn Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Dịch giả Hà  Nội 'mở đường' cho chữ quốc ngữ ở VN

à”ng Nguyễn Văn Vĩnh

Nguyễn Văn Vĩnh quê gốc ở là ng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà  Đông (nay là  huyện Phú Xuyên, Hà  Nội). Gia đình ông là m nghử nông, đói nghèo nên phải bử quê ra thà nh phố kiếm sống và  ở nhử tại phố Hà ng Giấy.

à”ng sinh ngà y 15/6/1882 tại số nhà  46 phố Hà ng Giấy, trong cảnh loạn lạc, và o lúc thà nh Hà  Nội bị quân Pháp đánh chiếm lần thứ hai, do Henri Rivière chỉ huy, được hơn một tháng. Sau đó buộc triửu đình Huế ký hiệp ước Patenôtre (1884) nhận đầu hà ng, và  Hà  Nội trở thà nh đất nhượng địa của thực dân Pháp. Sự xuất hiện của quân Pháp chiếm đóng Hà  Nội đã có tác động lớn đến cuộc đời sau nà y của ông.

Vì là  anh cả trong gia đình đông con, ngay từ năm 8 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh đã được xin cho là m công việc kéo quạt ở trường thông ngôn của Pháp mới mở ở phường Yên Phụ để kiếm tiửn phụ giúp gia đình. Cậu bé Nguyễn Văn Vĩnh thường ngồi phía cuối lớp kéo hai chiếc quạt nối liửn nhau, vừa quạt mát cho giáo viên vừa quạt mát cho học sinh là  những ông Tú tà i Nho học thất thế quay ra học tiếng Pháp để là m thông ngôn. Cậu cũng chăm chú nghe giảng, cũng nói được và  viết được tiếng Pháp, lại còn thông thạo hơn nhiửu học sinh lớn tuổi khác. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và  còn trả lời được các câu hửi của thà y giáo trong khi các cậu con nhà  già u trong lớp còn đang lúng túng.

Hiệu trưởng là  ông D™Argence thấy vậy, sau ba năm mãn khóa, cho cậu thử­ thi tốt nghiệp. Lớp học có 40 học sinh, cậu đỗ thứ 12 khi mới 11 tuổi. Hiệu trưởng đặc cách nhận cậu và o học chính thức, được hưởng học bổng, để theo học khóa tiếp theo. Nguyễn Văn Vĩnh được là  học sinh chính thức lớp thông ngôn tập sự ngạch tòa sứ khóa 1893-1895, và  đã đỗ thủ khoa lúc 14 tuổi, được tuyển đi là m thông ngôn ở tòa sứ Lao Cai sau đó ông lần lượt là m thư ký cho các Tòa công sứ  Kiến An, Bắc Ninh và  Tòa tổng đốc Hà  Nội.

Với chủ trương mở mang học hà nh, lập các tổ chức y tế và  hội thiện của thực dân Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh đã trở thà nh sáng lập viên của các hộ và  trường học được lập ra thời bấy giử như trường Аông Kinh nghĩa thục, Hội Trí Tri, Hội dịch sách, Hội giúp đỡ người Việt sang Pháp học...

Năm 1906 ông được cử­ đi dự hội chợ Marseille và  được chứng kiến tận mắt nửn văn minh của nước Pháp, đi thăm một số nhà  in, nhà  xuất bản và  tìm hiểu nửn báo chí của Pháp.

Dịch giả Hà  Nội 'mở đường' cho chữ quốc ngữ ở VN

Bản chữ quốc ngữ

Sau khi trở vử nước, với tư tưởng "Nước Nam ta mai sau nà y hay dở cũng ở chữ quốc ngữ". à”ng và  lớp trí thức thế hệ ông đã là m cuộc cách mạng chữ viết thà nh công hồi đầu thế kỷ. à”ng đã xin thôi việc, mở nhà  in và  là m chủ bút của nhiửu tử báo. Năm 1907 ông mở nhà  in đầu tiên ở Hà  Nội và  xuất bản tử Аăng Cổ Tùng Báo - tử báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ ở Bắc Kử³. Аáng kể nhất là  việc khuyến khích, dạy dân Việt viết văn dùng chữ Quốc Ngữ qua tử Аông dương Tạp chí (1913).

Ngoà i ra, ông còn nhiửu công trình dịch thuật văn học như dịch thơ ngụ ngôn, truyện cổ tích, kịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. à”ng cũng là  người đầu tiên dịch Truyện Kiửu sang tiếng Pháp. Bản dịch Kiửu của ông Vĩnh rất đặc sắc vì ông không chỉ dịch cả câu mà  còn dịch nghĩa từng chữ và  kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điửu chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm), Trung Hoa (bằng chữ Nho), và  Pháp mới có thể là m được. Sự cố gắng và  sức là m việc phi thường của ông Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong việc truyửn bá kiến thức và  văn hoá phương Tây trong dân Việt, và  đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ Quốc ngữ.

Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bử các khoa thi (Hương - Hội - Аình) ở Bắc Kử³. Năm 1918 vua Khải Аịnh ra chỉ dụ bãi bử các khoa thi nà y ở Trung Kử³ và  đến năm 1919 bãi bử hoà n toà n các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt. Năm 1924, toà n quyửn Аông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc ngữ và o dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học. Như vậy là , sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt - Bồ - Latinh của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với hệ chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ. Аây quả thực là  một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà  văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Văn Vĩnh là  người Việt Nam đã hai lần từ chối Huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và  ông đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gử­i chính quyửn Аông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh. à”ng bị thực dân Pháp không ưa. Tòa soạn của ông bị vỡ nợ và  ông đã phải sang Là o đà o và ng rồi chết bởi một cơn sốt rét ác tính. Người ta tìm thấy xác của ông trong một con thuyửn độc mộc, trên tay vẫn nắm chặt cây bút và  một quyển sổ ghi chép vử thiên ký sự bằng tiếng Pháp Một tháng với những người tìm và ng và o năm 1936.

Khi đoà n tà u chở chiếc quan tà i mang thi hà i ông Vĩnh vử đến ga Hà ng Cử, hà ng ngà n người dân Hà  Nội đứng chử trước quảng trường nhà  ga để đưa tiễn ông “ con người bằng tà i năng và  sức lao động không biết mệt mửi của mình đã góp phần là m cho chữ Quốc ngữ trở thà nh chữ viết của toà n dân Việt.

Vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh trong sự truyửn bá người dân Việt sử­ dụng chữ Quốc ngữ là  không thể phủ nhận, ông là  một trong những người mở đường cho một nửn văn hóa mới, sử­ dụng ngôn ngữ mới và  tiến lên dùng chính ngôn ngữ mà  thực dân Pháp dạy ta để chống lại chúng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, già nh độc lập cho dân tộc thời kử³ nà y.

HÆ°á»›ng DÆ°Æ¡ng