Lò luyện thi đầu tiên ở Việt Nam
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 08:13, 30/09/2009
Nguyên thủy, là ng có tên là là ng Sê, vử sau còn có những tên gọi khác như Đan Khê, Huyửn Khê, Đan Sĩ ( nghĩa là Bến thuốc gắn với danh nhân quê hương là danh y Hoà ng Đôn Hòa mà và o thế kỷ 16, người để lại 208 phương thuốc trị bệnh cứu người được tôn thử là thà nh Hoà ng là ng) từ đó là ng mang một hà m ý mới, trọng vử giáo dục.
Thời nhà Lê ( 1428 - 1527), Đa Sĩ lập một Vườn học ở giữa là ng và o nơi cao ráo, rộng rãi, có chỗ cho học trò đặt chõng tre ngồi học, còn thầy giáo đứng trên bục cao nhiửu bậc. Đến Vườn học, không phải người chưa biết chữ hay những người học vấn thấp mà là những sĩ tử chuẩn bị bước và o những kì thi lớn.
Trong số đó, có những người mới chuẩn bị thi Hương nhưng không ít người đã vượt qua được kử³ thi đó nhưng vẫn đến Vườn học để nhử thầy chỉ bảo thêm trước khi thi Hội, thi Đình...
Ở Vườn học, thí sinh được luyện văn sách, thi, phú...hình thức là vấn đáp hoặc viết bà i luận, được hướng dẫn để là m quen với việc thi cử bằng những bà i kiểm tra tập dượt trước của thầy dạy. Do đó, có thể thấy rằng Vườn học là một loại trường luyện thi dưới thời phong kiến chỉ ở Đa Sĩ mới có, dà nh cho những người trong là ng trau dồi văn pháp trước khi lai kinh ứng thí.
Tiếng là nh đồn xa, tiếng tăm của Vườn học Đa Sĩ vang ra khắp nơi, học trò ở khắp mọi nơi xin vử ôn luyện và rất nhiửu người đỗ đạt cao dưới thời phong kiến bởi tinh thần hiếu học, tà i năng của các học trò nhưng cũng không thể phủ nhận công lao dạy dỗ của các ông giáo là ng.
Người có vinh dự mở đầu truyửn thống khoa bảng của là ng Đa Sĩ là Trình Thanh. Sách Đại Việt lịch triửu đăng khoa lục ghi chú ông Nguyên họ Hoà ng, người huyện ử¨ng Thiên (nay là ử¨ng Hòa, Hà Nội). à”ng đỗ Tiến sĩ năm Kỷ Dậu (1429) từng hai lần đi sứ sang Trung Quốc, là m quan qua 4 triửu vua Lê, từng giữ các chức Nội viên chánh chưởng Hà n lâm viện tri chế cáo...
à”ng còn là người đã trình vua 7 điửu nhằm chấn hưng đất nước và được nhà vua cho chấp thuận thi hà nh. à”ng là một tên tuổi lớn trong Nho lâm kử³ thụ ( tức là cây cao bóng cả trong rừng Nho học) đương thời.
Kế tiếp và phát huy truyửn thống dòng họ, cháu 2 đời của Hoà ng Trình Thanh là Khắc Minh đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1484) năm 22 tuổi, ông là m quan đến Lễ bộ Thượng thư, Đông các đại học sĩ, tước Lương nhân hầu.
Con trai của Hoà ng Khắc Minh là Hoà ng Nghĩa Phú đã xuất sắc đỗ Trạng nguyên khoa Tân Tửµ (1511) và trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc lại được triửu đình phương Bắc công nhận là Trạng nguyên, trở thà nh một trong số ít những công thần được phong tặng danh vị Lườ¡ng quốc Trạng nguyên là m vẻ vang gia tộc và đất nước, ông là m đến chức Tham tri chánh sự kiêm Ngự sử.
Con trai Hoà ng Nghĩa Phú là Hoà ng Tế Mử¹ cũng đỗ Tiến sử¹ khoa Mậu Tuất (1538), là m quan đến Thừa Chánh Sứ, tước Mạc khê bá. Một nhà ba đời liên tiếp đửu đỗ đại khoa, thật là hiếm có.
Dưới thời phong kiến, qua các triửu đại từ nhà Lý (1010 - 1125) đến nhà Nguyễn (1802 - 1945), cả nước có 1.906 người đỗ Tiến sĩ và 56 người đỗ Trạng nguyên thì riêng là ng Đa Sĩ đã có 11 Tiến sĩ và 1 Trạng nguyên. Trong số đó, riêng dòng họ Hoà ng đã có đến 11 người.
Đó là những con số khẳng định sức học của người Đa Sĩ, là kết quả tất yếu từ nửn móng giáo dục vững chắc. Trong thời hiện đại, Đa Sĩ có thêm hà ng trăm người đỗ Cử nhân, nhiửu người có bằng Tiến sử¹.
Nhắc đến truyửn thống khoa danh kế thế, thi lễ truyửn gia không chỉ là nói vử niửm tự hà o riêng của Đa Sĩ mà còn là của nhiửu là ng quê thuần nông trên đất nước ta. Chăm lo đến sự học không bao giử có điểm dừng mà phải là một việc là m thường xuyên, nghiêm túc, tận tâm và khoa học thì mới mong có được thà nh quả tốt đẹp.