Nghệ nhân tật nguyền nặng lòng với nón lá làng Chuông

Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 07:33, 02/11/2009

(NHN) Ở là ng Chuông người ta nói đến nghệ nhân Phạm Trần Canh như một niửm tự hà o, bởi nỗi ông đã và o cái tuổi xưa nay hiếm nhưng tà i nghệ là m nón của ông thì khó ai theo nổi. Rất khó khăn để có thể tự mình di chuyển bởi một phần thân thể đã để lại nơi chiến trường, vậy mà  với tình yêu và  đôi bà n tay tà i hoa khéo léo ông đã đưa nón là ng Chuông đi khắp mọi nơi.

Nón cổ hồi sinh

Năm lên 10 tuổi, cậu bé Canh cũng như bao trẻ con trong là ng đửu đã biết đến công thức là m nón, Là ng Chuông ít ruộng lắm nên xưa kia chủ yếu sống bằng nghử là m nón, hồi đó bà  nội tôi nổi tiếng là m ra những chiếc nón đẹp nhất là ng, ông Canh kể.

Khi đi bộ đội trở vử là ng, một phần thân thể đã để lại nơi chiến trường, anh thương binh Phạm Trần Canh thấy số người là m nón trong là ng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Những người già  trong là ng trước kia không còn nữa nên ông cà ng xót lòng khi công thức là m nón cũng mai một dần.

Cứ nghĩ đến một ngà y, con cháu trong là ng lớn lên sẽ chẳng còn biết đến cái nón Chuông vốn là  niửm tự hà o của là ng như thế nà o, trong ông nung nấu quyết tâm giữ lại nghử xưa. Nghĩ sao là m vậy, ông khăn gói đi các tỉnh Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên mua những chiếc nón cũ để tháo ra tìm công thức là m lại.

Nghệ nhân tật nguyền nặng lòng với nón lá làng Chuông

Bước sang những năm 1990, một số đoà n văn công, đoà n quan họ nghe thương hiệu nón Chuông đã tìm vử tận nơi để đặt là m những chiếc nón quai thao, nón cổ là m trang phục biểu diễn nhưng nghử là m nón cổ là ng Chuông lúc ấy đã thất truyửn rồi, trong là ng ai cũng lắc đầu khi được yêu cầu là m lại nghử xưa. Аiửu đó cà ng thôi thúc thêm quyết tâm đi tìm những công thức là m nón cổ của ông.

Cả tháng lăn lộn khắp các tỉnh để dò hửi, nghe ngóng hễ ở đâu có nón là  ông Canh lại mà y mò đến hửi mua cho bằng được. Tuy đi lại không dễ, đi đâu cũng phải mang đôi nạng theo nhưng không vì thế mà  ông nản chí. Có những đợt thời tiết thay đổi, vết thương tái phát, phần còn lại của chân phải bị thương nhức buốt nhưng khi có được trong tay chiếc nón cổ của người dân tộc Thái, ông mừng đến quên cả đau.

Hồi đó, 30 nghìn đồng là  to lắm, tôi phải giấu bà  nhà  tôi để mua, sợ bà  ấy xót của vì gia đình cũng đói kém lắm, ông Canh bùi ngùi nhớ lại.

Mua được nón vử rồi, lại gỡ ra đo đạc, để ý từng chi tiết hoa văn, cách đan vòng, cách xếp lá đến những đường khâu rồi hồi tưởng lại những chiếc nón cổ khi còn nhử mình vẫn thường nhìn bà  nội là m và  chị em phụ nữ đội đầu để sáng tạo thêm cho sản phẩm hoà n chỉnh.

Là m nón quan trọng nhất là  khâu là m lá, lá có dai, phẳng và  trắng bóng thì nón mới bửn và  đẹp. Có được lá để là m nón người ta phải lặn lội lên tận Аoan Hùng, Phú Thọ hoặc Kử³ Anh ( Hà  Tĩnh) để lấy được búp của cây cọ. Mỗi tháng cây chỉ cho một búp non xanh, búp ấy phải đem phơi nắng ban ngà y để mà u lá chuyển từ xanh sang trắng.

Trước tiên phải ngâm cho lá ngậm đủ nước, rồi kiên trì mang lá ra phơi khô, sau đó phải bắc lò nung than để lá trong khói của diêm huử³nh  sẽ đen đặc một mà u nhưng nó lại là m cho lá nón dần dần lộ ra vẻ trắng ngọc ngà . Lá đã thấm khói, lại tiếp tục mang thả trong sương sớm và i ba ngà y để đạt được độ dai và  mửm.

Cầm tà u lá quăn queo trên tay, để lá được phẳng, trơn và  mượt người ta lại dùng một miếng gang to bản, hay chiếc lườ¡i cà y đã nung qua để là  lá qua một lớp vải cho đến lúc phẳng và  bóng thì thôi.

Miếng nóng gang có tác dụng là m lá thẳng nhưng tay phải lướt đửu và  nhẹ bởi nếu nôn nóng lá sẽ giòn hoặc cháy mất , ông Canh nói.

Аể là m khung nón, người ta chọn cây tre bánh tẻ, lấy cật uốn thà nh một vòng tròn để lợp những tấm lá một cách khéo léo. Bà n tay của nghệ nhân Phạm Trần Canh cứ khéo léo thoăn thoắt ken lá lấp đầy chỗ trống của vòng tròn, mỗi một vòng tròn, ông lợp đầy hai lớp lá ấy rồi dùng thứ cước mà u xanh, đử rất dai, rất chắc khâu lại. Là m nón, tỉ mỉ đã đà nh nhưng để thác nón người khâu phải thật tinh mắt.

Những  mũi khâu đửu tăm tắp, tinh tế cứ lần lượt hiện ra dưới đôi bà n tay sù sì thô ráp của người nghệ nhân già . Bây giử, người ta cũng bán những chiếc nón giá khoảng 10.000đ/ chiếc nhưng lá nón không được khâu mà  chỉ dán lại bằng nước. Nón ấy, nhanh tã và  hay mốc khi bị dính mưa và o, bao giử khi vừa khâu nón tôi cũng phải để chậu nước trước mặt để vừa ghép lá vừa phải vẩy nước cho nón được chắc, ông Phạm Trần Canh giải thích.

Nón khâu xong, được bứt ra khuôn rồi là m chóp, là m cạp, là m rốn nón để thà nh phẩm và  bán với giá từ 20 đến 30.000/ chiếc. Với nghệ nhân Phạm Trần Canh còn có thêm một bí quyết là  quết một lớp dầu nhựa thông bên ngoà i mặt nón để nón không mối, mốc khi trời mưa, ẩm ướt. Là m nón chop dứa, thông thường như vậy đã xong nhưng để là m ra được một chiếc nón quai thao (nón ba tầm) thì cầu kử³ và  phức tạp hơn.

Nghệ nhân tật nguyền nặng lòng với nón lá làng Chuông

Duy trì nghử nón quê hương

Аi hết một chặng đường là m nón, có người thấy mệt mửi, có người thấy ly kử³, hấp dẫn. Còn đối với người nghệ nhân nà y là  cả niửm say mê đến nao lòng. Sau những chiếc nón quai thao đầu tiên được hoà n thà nh giao cho các đoà n văn công, đoà n quan họ, nghệ nhân Canh lại tiếp tục phục chế lại nhiửu mẫu nón cổ khác như nón dân tộc Thái, nón chóp dứa, nón lá già  ghép song, nón Lâm Sung ( nón Hồng Kong)...

Những chiếc nón cổ đã được hồi sinh dưới bà n tay của người thương binh từng cầm súng ra chiến trường năm xưa, trở nên đẹp và  có hồn đến lạ. Tiếng là nh đồn xa, năm 2001 nghệ nhân Phạm Trần Canh bất ngử nhận được một đơn đặt hà ng là m hai chiếc nón thúng quai thao khổng lồ có đường kính rộng 2m mang tham dự triển lãm hà ng thủ công mử¹ nghệ tại Cộng hòa Séc và  Đức.

Biết rằng đây là  cơ hội hiếm có để ông mang nét đẹp của quê hương Việt Nam đến với với bạn bè quốc tế, năm ấy, ông tập tễnh bắt xe lên Phú Thọ, đích thân chọn những búp cọ nếp, dà i và  đẹp nhất vử là m lá nón. Rồi lại sang tận Hà  Nam mua cây tre bánh tẻ vử là m vòng nón...Là m nón lớn, ông phải treo mình lên trần nhà  để khâu được chóp nón sao cho chặt và  tinh tế.

Nghệ nhân tật nguyền nặng lòng với nón lá làng Chuông

Nghệ nhân Phạm Trần Canh đang đan nón

 Lúc ấy, thanh niên trai tráng trong là ng cũng xúm xít đến học là m và  xem, nhưng rồi tính trẻ không chịu được sự cầu kử³ và  tỉ mỉ, sau rồi chúng bử đi hết, chỉ còn lại bà  nhà  tôi phụ giúp. Có hôm tôi mải là m quên cả ăn cơm, nghệ nhân Canh nhớ lại.

15 ngà y miệt mà i, ông đã hoà n thà nh xong 2 chiếc nón khổng lồ  để nhanh chóng gử­i sang nước bạn. Từ ngà y đó, du khách nước ngoà i đến với nón Chuông ngà y cà ng đông, họ muốn xem và  tìm hiểu tác giả của 2 chiếc nón đang được trưng bà y giữa bao giá trị văn hóa khác trên thế giới.

à”ng Canh còn giữ một bức thư ngắn của một một nhà  báo người Nhật Bản viết vử gia đình ông sau khi họ đi dự triển lãm và  sang Việt Nam viết vử ông, bức thư viết bằng tiếng Việt được ông ghim trên tường giữa những chiếc nón cổ.

Bây giử và o nhà  nghệ nhân Phạm Trần Canh người ta vẫn thấy hai chiếc nón cổ treo ngoà i cử­a ra và o đã phủ bụi theo thời gian. Аó không chỉ là  kỷ niệm của một người nghệ nhân say với nghử mà  đó như một sự nhắc nhở găm và o tâm hồn thế hệ con cháu là ng Chuông là m sao để mãi duy trì được nghử truyửn thống quê hương.

Giang Quỳnh