Sau 3 năm hội nhập WTO: Việt Nam đã có những bước tiến
Tin tức - Ngày đăng : 14:33, 12/01/2010
Đó là những đánh giá khách quan của nhiửu đại biểu trong hội thảo quốc tế Vận hội và thách thức của Việt Nam sau 3 năm gia nhập WTO được tổ chức ngà y 12/1, tại Hà Nội.
Hội thảo quốc tế Thà nh tựu và thách thức của VN sau 3 năm gia nhập WTO (Ảnh NHN)
Sẽ tồi tệ hơn nếu không hội nhập
Đánh giá tình hình hội nhập WTO sau 3 năm trong hội thảo, Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan nhận định, 3 năm là thời gian quá ngắn để đánh giá một sự kiện lớn; hơn nữa khó có thể bóc tách cái gì là do WTO, cái gì là do các yếu tố khác tác động đến nửn kinh tế; Và đặc biệt là Việt Nam gia nhập WTO và o đúng thời điểm nửn kinh tế rơi và o khủng hoảng trầm trọng...
Tuy nhiên, Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cho rằng Việt Nam và o WTO có hai tác động hữu hình và vô hình. Trong đó, tác động vô hình có mạnh hơn so với hữu hình. Bởi, trong khi tác động hữu hình biểu hiện ở sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoà i thì tác động vô hình là nhận thức của người dân Việt Nam vử việc gia nhập WTO ngà y cà ng tốt hơn.
Hơn nữa, thể chế của ta cũng đã được cải thiện rõ rệt trong các năm gần đây. Cụ thể, sức ép hội nhập đã khiến Việt Nam có bước đột phá khi đặt mục tiêu giảm tối thiểu 30% thủ tục hà nh chính hiện hà nh. Đồng thời, phân biệt rõ hơn sự đửng đảnh của thể chế thị trường và kinh tế thế giới để từ đó doanh nghiệp Việt Nam biết xoay sở và thích ứng tốt hơn. Những cơ hội, thách thức và điểm mạnh, điểm yếu của Việt Nam cũng bộc lộ để có những khắc phục kịp thời. Nếu chúng ta không hội nhập, thì tình hình kinh tế trong các năm qua có lẽ còn tồi tệ hơn “ Phó Thủ tướng Vũ Khoan nhấn mạnh.
"Nếu chúng ta không hội nhập, thì tình hình kinh tế trong các năm qua có lẽ còn tồi tệ hơn" - Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan
Đánh giá vử mặt đầu tư trực tiếp nước ngoà i từ khi Việt Nam gia nhập WTO, GS. Nguyễn Mại “ Chủ tịch hiệp hội doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoà i cũng đã phân tích rằng, FDI nhiửu năm qua đã trở thà nh điểm sáng trong bức tranh kinh tế của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Cục đầu tư nước ngoà i vử tình hình FDI từ tháng 1 đến tháng 11/2009, thì vốn đăng ký là 19,7 tỷ USD, bằng 28% năm 2008, vốn thực hiện dự kiến cả năm là 10 tỷ USD, bằng 86% năm trước. Tuy vốn đăng ký FDI năm 2009 của nước ta giảm khá nhiửu so với năm 2008, nhưng không coi đó là một thảm họa, vì vốn đăng ký chỉ mới thể hiện cam kết của các nhà đầu tư quốc tế, biểu hiện xu thế phát triển FDI và o một nước, nhưng chưa phải là hoạt động thực tế của FDI.
Vốn thực hiện là chỉ tiêu quan trọng nhất, trong đó khoảng 80% là vốn từ nước ngoà i đưa và o Việt Nam, năm 2009 giảm khoảng 14% so với 2008 là kết quả đáng khích lệ trong điửu kiện vốn FDI quốc tế sụt giảm nhiửu và FDI của nhiửu nước trong khu vực giảm 20 “ 30%...
Trong bản tham luận, đánh gía tác động của việc gia nhập WTO đối với một số sản phẩm, dịch vụ, tà i chính “ ngân hà ng, bưu chính viễn thông, bảo hiểm... TS. Võ Trí Thà nh, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương cũng có những đánh giá cao vử sự biến chuyển.
Cần những biện pháp chuyển mình trong tương lai
Đánh giá vử triển vọng 2010, ông Vũ Khoan cũng cho rằng, Việt Nam sẽ có khá nhiửu thuận lợi như: nước ta đã trụ được khá bửn vững trong cuộc khủng hoảng. Vị thế quốc gia, vị thế chính trị cũng được nâng lên rất nhiửu, do đó có thể thu hút nguồn lực từ nước ngoà i và o Việt Nam tốt hơn. Việt Nam cũng dà y dạn kinh nghiệm hơn sau cuộc vật lộn với khủng hoảng, nhiửu doanh nghiệp đã đúc rút được nhiửu bà i học từ thị trường, thể chế...
Tuy nhiên, Việt Nam cũng sẽ đối mặt với không ít những khó khăn, bởi nửn kinh tế mặc dù đang có những phục hồi nhưng ẩn chưa nhiửu dấu hửi không ai đoán trước được. Hơn nữa, sau khủng hoảng nước ta đã tế bộc lộ nhiửu điểm yếu vử hạ tầng, nguồn nhân lực, thể chế chưa hoà n chỉnh... Những vấn đử nà y sẽ đè nặng lên nửn kinh tế. Đặc biệt, toà n thế giới đang tái cơ cấu nửn kinh tế, nếu Việt Nam không tái cơ cấu kịp có thể sẽ bị đánh bật ra khửi cuộc chơi...
Theo đó các doanh nghiệp phải có chính sách linh hoạt, cơ động không thể nhất thà nh bất biến. Tuy nhiên sự linh hoạt, cơ động nà y phải trên cơ sở có thể tiên đoán trước được, mà muốn vậy thì thông tin tới các doanh nghiệp phải công khai, minh bạch.
Phó Thủ tướng cũng nhấn mạnh, câu chuyện lớn nhất của nửn kinh tế Việt Nam là phải xác định được mô hình phát triển trong tương lai. Đây là một câu chuyện chưa dứt, không có mô hình đúng đắn có thể chúng ta sẽ đi chệch đường ray phát triển của thế giới, khi đó chúng ta chỉ có thể đứng nhìn tà u chạy mà không được ngồi trên đó.
GS. Nguyễn Mại trong bà i tham luận của mình cũng đã đử cập: dự báo FDI của nước ta năm 2010 sẽ được phục hồi và có thể tăng trưởng cao hơn năm 2008 vử vốn thực hiện và chất lượng các dự án FDI được nâng cao hơn. Bởi triển vọng tăng trưởng kinh tế 2010 có thể đạt khoảng 6,5% cao hơn năm 2009.
Bên cạnh đó chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện hơn 110 tỷ USD, sau khủng hoảng là thời kử³ các nhà đầu tư sẽ thực hiện các dự án đã cam kết, chỉ cần 10% con số đó được giải ngân đã bằng mức vốn thực hiện năm 2008, đó là chưa kể việc mở rộng hoạt động của nhiửu doanh nghiệp FDI và những dự án mới sẽ được cấp phép.
Hội nhập sẽ giúp Việt Nam tận dụng được nhiửu cơ hội cho bước phát triển mới trong tương lai (Ảnh St)
Việc thực hiện cam kết quốc tế trong khung khổ WTO, AFTA và hướng tới cộng đồng ASEAN và o năm 2015, quan hệ song phương với một số nước mà Việt Nam đã nâng lên tầm chiến lược tạo ra thế và lực mới vủa nước ta trong khu vực và trên thế giới.
Vấn đử chủ yếu của Việt Nam trên đường phát triển, trong đó có thu hút FDI là vượt qua chính mình trong khi đã có những tiửn đử vật chất và tình hình chính trị, xã hội tốt hơn, để tiến lên với tốc độ nhanh, bửn vững, có hiệu quả.
Theo bà Amywee- chuyên gia tư vấn cao cấp Chính phủ Singapore, các nước cần phát triển dựa trên nửn kinh tế tri thức, bởi sự phát triển dựa trên khai thác tà i nguyên thiên nhiên sẵn có hay phụ thuộc và o nước ngoà i đửu không bửn vững. à”ng Oliver Massmann- Thà nh viên Ban quản trị Phòng Thương mại Công nghiệp châu à‚u (Euro Cham) cũng cho rằng, Việt Nam nên chú trọng đà o tạo nhân lực, mở thêm nhiửu trường dạy nghử thay vì mở thêm trường đại học đà o tạo lý thuyết.
Nhiửu đại biểu khác, cũng nhấn mạnh trong thời gian tới các doanh nghiệp cần tiếp tục nghiên cứu, phân tích sâu hơn những thuận lợi và khó khăn của mình để từ đó xây dựng và triển khai quyết liệt kế hoạch đổi mới sản xuất kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh, phát huy lợi thế so sánh.
Cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục hoà n chỉnh các quy định pháp lý cụ thể và chi tiết để thực hiện các cam kết quốc tế, khai thác triệt để các quy định có lợi để đảm bảo tốt lợi ích quốc gia...