Anh nông dân và cuộc đà o phá ngôi mộ cổ
Media - Ngày đăng : 09:33, 25/04/2010
Đúng 12 giử đêm, anh Trần Văn Khá, ở Thôn Kiệt Thượng (Văn An, Hải Dương), cùng 7 người, toà n anh em, hà ng xóm, trong đó có cả anh Việt, khi đó là đội trưởng, hì hục đà o bới, phá lớp hợp chất như bêtông, bẩy tung nắp hầm mộ.
Tôi hửi lại anh Khá rằng: Có đúng ngôi mộ là m bằng hợp chất gồm vôi, cát, mật, giống như bêtông không?. Anh Khá khẳng định như đinh đóng cột: Thà nh mộ là hợp chất như bêtông, lớp hợp chất xây như cái bể, dà y chừng 7cm. Khi tớ phá lớp bêtông nà y, thấy bên trong là một chiếc quách gỗ mà u đử còn nguyên vẹn, đẹp như vừa được đặt xuống. Chiếc quách nà y lớn lắm, bử ngang dễ đến 0,8m, dà i tới hơn 2m. Tớ luồn dây cáp và o áo quan, rồi 7 người cùng ghé vai khiêng, nhưng quan tà i không nhúc nhích tý nà o cả. Thậm chí, đưa xà beng và o bẩy, cũng không ăn thua gì. Sợ quá, tớ sai vợ mổ gà , nấu xôi, là m mâm cỗ cúng vái xin phép được di chuyển cụ ra nơi mát mẻ. Điửu lạ là , sau khi cúng vái xong, bọn tớ ghé vai khiêng thấy quan tà i nhẹ bẫng, nhấc một cái lên luôn.
Mặc dù rất sợ, nhưng nghĩ trong mộ có nhiửu của quý, nên anh Khá dùng xà beng phá quan tà i, bật nắp áo quan. Mở nắp thiên, tớ thấy quách gỗ gồm 3 lớp, khá dà y. Điửu lạ là có mùi thơm mát tửa ra từ ngôi mộ. Tuyệt nhiên không thấy mùi hôi thối bốc lên như ở những ngôi mộ bình thường khác. Soi đèn và o, thấy trong quan tà i chứa gần ngập một loại nước đặc sánh, hơi xanh. Quan tà i nà y khít đến nỗi, để trên mặt đất mà nước không rỉ ra ngoà i giọt nà o “ anh Khá kể.
Anh Trần Văn Khá là người đã đà o phá ngôi mộ cổ (?!). |
Đang không hiểu quan tà i lạ nà y chứa loại nước đặc biệt gì, thì đột nhiên, cả đám người tá hửa khi thấy xác chết nổi lên khửi mặt nước, lửnh bửnh trong lớp tinh dầu đặc sánh. Xác chết được quấn trong rất nhiửu lớp lụa là gấm vóc. Xua tan sợ hãi, đám người đà o mồ cuốc mả nà y mò mẫm trong là n nước thơm tìm của quý.
Tuy nhiên, chỉ thấy và i đồ gốm ít giá trị như bát đĩa, cối giã trầu và và i đồng tiửn xu cùng một số đồ tùy táng khác. Cắt lớp vải quấn xác chết để tìm tiếp, nhưng cũng không được gì. Cả đám người nà y đửu rất ngạc nhiên khi thấy xác chết vẫn còn nguyên vẹn, đầy đủ các bộ phận, như người nằm ngủ. Chuyện đà o được mộ cổ lan ra nhanh chóng, hà ng ngà n người tò mò kéo đến xem. Anh Khá kể: Có tới mười mấy đoà n khảo cổ từ mãi Hà Nội vử tìm hiểu ngôi mộ cổ và xác ướp. Tuy nhiên, tớ cũng chẳng biết họ là ai. Họ ghi chép, chụp ảnh ngôi mộ rồi bử đi, chả thấy kết luận điửu gì.
Thế rồi, ngôi mộ cổ rơi và o quên lãng. Sau khi các nhà khoa học nghiên cứu xong, anh Khá cải táng thi thể người chết ra nghĩa địa. Riêng mấy tấm ván thiên anh giữ lại, vì đám thợ mộc bảo đó là gỗ tốt. Có một số người trả anh bạc triệu, số tiửn khá lớn thời bấy giử, song anh không bán. Anh Khá kể câu chuyện hư hư thực thực liên quan đến những tấm ván thiên: Tớ ngâm mấy tấm ván ở dưới ao trước nhà , thi thoảng lại xuống mò xem còn hay bị trộm vác đi mất rồi. Một lần, kéo tấm ván lên, lại thấy những dòng chữ nho hiện lên ở mặt gỗ. Có một lớp hóa chất mà u trắng, mửng tang phủ lên những dòng chữ đó. Tớ rỗi rãi, nghịch ngợm, cứ lấy móng tay gẩy lớp hóa chất như keo, tức thì những cái chữ nà y cứ bay đi như kiểu bốc hơi ấy.
Hôm sau kể với ông chú, ông ấy mắng cho một trận, bảo ngu, không để lại chữ đó cho ông đọc. Công nhận tớ cũng ngu thật. Đừng bóc mấy cái chữ ấy đi, khéo biết rõ thân phận người trong mộ. Là người vô thần vô thánh, đến mộ còn dám đà o phá, thế nhưng, trên gương mặt anh Trần Văn Khá vẫn còn hiển hiện nét kinh hãi khi kể lại những tháng ngà y sau khi xâm phạm ngôi mộ cổ nà y. Theo lời anh Khá, sau khi cải táng cụ, suốt mấy tháng trời, không đêm nà o anh và gia đình ngủ yên giấc. Cứ thiu thiu ngủ lại bừng tỉnh như có ai dựng dậy. Không rõ gặp "ma" hay mắc chứng sợ quá thà nh ảo tưởng, nhưng một thời gian sau khi phá mộ, anh Trần Văn Khá trở nên điên điên khùng khùng, lơ nga lơ ngơ, không biết gì suốt mấy tháng trời. Cả ngà y anh chỉ ngồi như một khúc gỗ, là nh như củ khoai, đôi mắt vô hồn, không tự ăn uống, vệ sinh được. Chị vợ phải chăm sóc cho anh như một đứa trẻ. Có thời gian anh Khá tỉnh táo, sợ quá liửn bử và o Bình Dương sinh sống, kiếm việc là m.
Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, anh lại rơi và o tình trạng không ngủ được. Anh tiếp tục trở thà nh người điên điên khùng khùng, cả ngà y nói nhảm. Ở Bình Dương cũng không thoát, nên anh lại trở vử. Nghe lời thầy cúng, anh Khá vay tiửn, tổng cộng 5 triệu đồng, cải táng cụ vử chỗ cũ, xây lại ngôi mộ đà ng hoà ng, rồi ngà y đêm thắp hương khấn vái, trông nom ngôi mộ. Tất cả tà i sản lấy từ ngôi mộ, gồm những tấm quách, đồ tùy táng anh đửu chôn theo. Từ đấy, anh Khá mới cảm thấy tinh thần yên ổn, không rơi và o cảnh mất ngủ, điên khùng nữa.
Huyửn tích vử tổ mẫu họ Vũ “ Võ
Theo huyửn tích, cũng như chính sử, thì cụ Vũ Hồn, thà nh hoà ng là ng Mộ Trạch (Tân Hồng, Bình Giang, Hải Dương) là tổ của họ Vũ và họ Võ cả nước. Các tà i liệu, kể cả dân gian lẫn chính sử đửu còn lưu giữ ở đửn thử cụ Vũ Hồn, một ngôi đửn có quy mô rất lớn, rất đẹp, mới được hai đại gia Võ Hồng và Vũ Văn Tiửn cúng tiến nhiửu tỷ đồng trùng tu. Theo đó, và o thời nhà Đường, có ông Vũ Công Huy, người là ng Mã Kử³, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến, công danh hiển đạt nhưng lại thiếu người nối dõi tông đường. Người vợ cả là bà Lưu Thị Phương, đã ngoà i 60 tuổi mà chưa sinh hạ được con trai. Chuyện nà y khiến ông buồn rầu nên thường than rằng, không có con hiếu, cháu hiửn thì và ng núi, thóc bể cũng khinh như cử rác.
à”ng xin vua Đường cho được từ quan, đi chu du thiên hạ cho thửa chí tang bồng. Là người thông hiểu địa lý, phong thủy, một lần chu du qua trang Mạn Nhuế, thuộc huyện Thanh Lâm, trấn Hải Dương, thấy có mảnh đất theo thế sơn thủy bao quanh, long hổ chầu lại, nên ông đã dừng chân. Nghĩ rằng, đây là đất tốt, nên ông lập tức quay vử, đem hà i cốt tổ tiên sang táng và o khu đất có tên Đống Dửm (hiện Đống Dửm, ở Nam Sách, vẫn còn văn bia, mộ táng treo theo kiểu đời Đường - PV).
Vũ Hồn lúc mới sinh (Tranh của Vũ Quốc ài). |
Ngà y đó, trang Mạn Nhuế có người con gái tên Nguyễn Thị Đức, 18 tuổi, đoan trang hiửn hậu mà cực kử³ xinh đẹp, đã hút hồn ông Huy. à”ng Huy đem lòng yêu mến nên ngử lời lấy nà ng là m vợ. Cảm phục người tà i, coi tiửn của như cử rác, coi công danh như nước chảy mây trôi, người đẹp Nguyễn Thị Đức đã đồng ý kết tóc xe duyên. Nghĩ rằng, đất phúc sinh phúc nhân, nên ông đã ở lại quê ngoại sinh sống. Chừng một năm sau, vợ ông bảo, nằm mộng thấy người thần, đem quả đà o tiên, nà ng liửn nuốt lấy. à”ng Huy ngẫm lại giấc mộng của vợ, thấy đó là điửm là nh. à”ng liửn đưa vợ vử Bắc quốc. Rồi bà Nguyễn Thị Đức mang thai. Ngà y mùng tám tháng giêng, năm Giáp Thân (804), đêm trăng sáng, có đám mây và ng hình tròn che phủ trước sân, rủ xuống sát mặt đất. Bà Đức liửn sinh hạ một thần nhi, thiên thư tuấn tú, khí chất hiên ngang, mà y vua Nghiêu, mắt vua Thuấn, lưng vua Vũ, vai vua Thang, dáng vẻ thật lạ thường. à”ng Huy bèn đặt tên con là Hồn.
Chữ Hồn có nghĩa là hồn nhiên, ôn hòa, thông minh. Năm lên 7, cậu bé Vũ Hồn đi học, sách vở xem qua một lượt là nhớ hết. 12 tuổi đã thuộc là u văn chương, lại giửi cung tên, đọc cả binh thư, nên tinh thông văn võ, rõ là bậc anh tà i giửi nhất thiên hạ. Năm 16 tuổi thi Đình, vua Đường xét Hồn là bậc kử³ tà i, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu, nên phong cho chức quan Lễ bộ tả thị lang, ban xe ngựa, mũ áo vử vinh quy. Hai năm sau, Vũ Hồn được thăng là m Đô đà i ngự sử, rồi hơn năm tiếp nhận mệnh vua Đường lấy tên là Hà n Thiửu, nhậm chức Giao Châu Thứ sử, Kinh Tông năm Bảo Lịch nguyên niên (tức năm 825). Đến năm Hội Xương nguyên niên (841), Vũ Hồn được tiến thăng An Nam Đô hộ Kinh lược sứ, thay người tiửn nhiệm là Hà n Ước. Phụng chiếu vua, Vũ Hồn liửn tuần thú đến đất Giao Châu. Lúc kinh lý đến trang Mạn Nhuế, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương, ngà i là m lễ yết bái mộ tổ. Sau đó, ngà i đến trang Khả Mộ, huyện Đường An, phủ Bình Giang (giử là là ng Mộ Trạch, Tân Hồng, Bình Giang, Hải Dương). Thấy vùng đất sơn thủy hữu tình, long chầu hổ ấp, nội sà o ngoại sà o, tả phù hữu bật, 5 con ngựa chầu trước, bảy ngôi sao chiếu đằng sau, thần đồng đứng hai bên, bảng bút bà y sẵn, đúng là nơi phát tổ tiến sĩ.
Ngà i bèn vẽ thà nh địa đồ, rồi cắm đất, đắp La Thà nh kiên cố. Tướng sĩ tiến hà nh gấp công việc, không kể ngà y đêm. Tuy nhiên, công việc nặng nhọc khiến quân sĩ bất bình, là m loạn, Vũ Hồn phải bử chạy vử Quảng Châu. Sau đó, Sĩ Tắc tiếp quản, dẹp yên loạn lạc. Vua Đường đã cho gọi Vũ Hồn vử triửu, cùng dự yến tiệc, bà n mưu tính kế. Tuy nhiên, do triửu đình khi đó loạn lạc, phe phái tranh già nh, chán nản, ông viện lý do rằng: Người xưa được một ngà y nuôi cha mẹ, dẫu là m quan Tam công (Thái sư, Thái phó, Thái bảo) cũng không sướng bằng. Tôi nay còn có mẹ già , há nên ham muốn già u sang mà không nghĩ đến sự hiếu dườ¡ng hay sao?. Rồi ông bèn dâng biểu từ quan, nộp lại chức, vử nhà nuôi dườ¡ng mẹ già . Vua thuận tình, ban cho tiửn và ng, gấm vóc. Rồi ngà i vử ngay quê nhà đón mẹ già sang sống ở Giao Châu cho mẹ khửi nhớ quên hương bản quán. Vũ Hồn cho thiết lập một lâu đà i ở Thượng khu, trang Khả Mộ là m nơi phụng dườ¡ng mẹ già và khuyên bảo nhân dân chuyên là m điửu lợi, trừ việc hại. Dân trong vùng đửu có lễ nghĩa, nhà nhà già u có, là công đức lớn của ngà i. Người dân trang Khả Mộ đửu chịu ơn lớn và coi ngà i như mặt trăng, mặt trời, như cha mẹ. Nhân dân là m lễ, rồi xin ngà i rằng: Nay lâu đà i là m chổ ở, vử sau là m mộ tự.
Ngà i hứa cho vậy và bảo rằng: Trang khu có hậu thì phải trọng di mệnh của ta. Vạn năm vử sau trang khu không quên thử cúng. Rồi ngà i lại cho dân thêm 5 nén và ng, tậu ruộng, ao là m việc hậu, cúng tế. Nhân dân đửu vâng theo. Khi ấy, đức thánh Mẫu đã già , bệnh đã lâu, nên hóa. Ngà i khóc than kêu trời rất thương xót. Xem xét địa lý, thấy trang Kiệt Đặc, huyện Thanh Lâm (nay là Chí Linh) là đất tốt, liửn rước linh cữu lên táng ở đó. Ngà i hương khói bên mộ mẹ đúng 3 năm thì mãn tang. Và o ngà y 3-12, năm 853, khi ngà i đang đọc sách, bỗng nhiên thấy trong người bất an, không bệnh mà mất. Ngà i thọ 49 tuổi. Nhân dân đau buồn, đem táng ngà i tại cánh đồng phía bắc là ng, gọi là Mả Thần. Bỗng nhiên trời tối sầm, mây phủ kín. Một giử sau, trời quang, thấy kiến mối đùn đắp thà nh một ngôi mộ lớn. Ai nấy đửu kinh hãi, lập tức trình báo lên quan huyện. Quan huyện là m sớ dâng vua. Vua bèn ban cho sắc phong là m Thượng đẳng phúc thần. Cụ Vũ Hồn được coi là thần tổ của dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam, là thà nh hoà ng của là ng Mộ Trạch từ đó...
Còn tiếp...