Những nét tương đồng giữa Hoa Lư-Thăng Long Hà Nội
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 10:18, 04/08/2010
Trước hết, vử vị trí địa lý, Hoa Lư và Thăng Long Hà Nội đửu nằm ở vùng châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, ven các dòng sông lớn và đửu gắn liửn với huyửn tích vử linh vật Rồng Và ng.
Kinh đô Hoa Lư (nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) nằm ở gần kử sông Hồng Long nghĩa là Rồng Và ng. Dòng sông nà y gắn liửn với sự tích Rồng Và ng nổi lên giữa dòng cứu Đinh Bộ Lĩnh (vua Đinh Tiên Hồng) bị chú ruột là Đinh Thúc Dự đuổi đánh vì tội giết trâu của chú khao lũ trẻ mục đồng, còn kinh đô Thăng Long nằm ở ven sông Nhị Hà (tức sông Hồng ngà y nay) gắn liửn với huyửn tích có Rồng Và ng hiện lên trên ngã ba Tô Giang Nhị hà dưới chân thà nh Đại La rẽ sóng tới gần thuyửn ngự vua Lý Thái Tổ rồi bay vút lên trời khuất lẫn trong những đám mây bông Long vân khánh hội Rồng mây gặp hội anh hà o ra tay. Dáng Rồng bay vạch thế đất vươn lên nên mới đổi là Thăng Long.
Ngoà i những dòng sông lớn là Hoà ng Long và Nhị Hà ra thì ở Hoa Lư còn có dòng Sà o Khê chạy ngoằn ngoèo uốn lượn bên trong vử phía đông Kinh Thà nh; Còn Thăng Long có dòng Tô lịch ở vử phía Tây Kinh Thà nh.
Dòng Hoà ng Long, Nhị Hà cũng như dòng Sà o Khê, Tô Lịch là những tuyến đường giao thông thủy đã diễn ra các sự kiện lịch sử quan trọng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, mở mang phát triển quốc gia dân tộc dưới triửu Đinh và triửu Lý sau đó mà sử sách ghi chép cũng như dân gian lưu truyửn.
Cuộc dời đô lịch sử của vua Lý Thái Tổ và o năm Canh Tuất (1010) từ sông Hoà ng Long ra tới sông Nhị Hà để vử thà nh Đại La (Thăng Long). Còn ở Thăng Long, các vua nhà Lý thường chèo thuyửn trên dòng sông Tô Lịch mang nhiửu huyửn tích ngắm cảnh đất trời sông nước La Thà nh-Thăng Long nên thơ và ngoạn mục.
Ở khu cố đô Hoa Lư khai quật khảo cổ học đã tìm thấy khu mộ Hán cạnh chùa Bà Ngô thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa lư, tỉnh Ninh Bình bên dòng sông Hoà ng Long. Do đó có thể nêu lên một nhận định dựa trên cơ sở xác thực là nơi đây hẳn là trụ sở của Trường Châu thời nhà Đường, vì theo sách Đất nước Việt Nam qua các đời của Đà o Duy Anh thì đất Ninh Bình thời Đường thuộc vử Trường Châu; Còn ở Thăng Long Hà Nội vốn là Thà nh Đại La do Cao Biửn xây đúng như sử sách ghi chép.
Ở Hoa Lư và Thăng Long Hà Nội cơ sở hạ tầng xã hội khá thuận lợi để giao thông buôn bán phát triển kinh tế. Hệ thống giao thông mà chủ yếu là các tuyến đường thủy từ các trung tâm Hoa Lư Thăng Long tửa đi các nơi trong nước lúc đương thời.
Từ Hoa Lư theo dòng Hồng Long xuôi ra sông Đáy tại ngã ba Gián Khẩu xuống Non Nước Vân Sà ng sang sông Vạc để ra biển Đông và và o Châu Hoan ài theo tuyến kênh nhà Lê do Lê Đại Hà nh đà o; Ngược lên phía Bắc và o sông Châu ra sông Hồng... Sử sách ghi chép cho biết Hoa Lư nhộn nhịp cảnh trên bến dưới thuyửn. Thương lái các nước lân bang lúc bấy giử theo đường thủy cập bến Hồng Giang mang hà ng hóa là vải lụa, gấm vóc trao đổi bán buôn tấp nập. Còn ở Kinh thà nh Thăng Long là nơi hội họp của bốn phương là trung tâm của đất nước, nơi đông người nhiửu của thương thuyửn các nước lúc bấy giử đến trao đổi hà ng hóa buôn bán đông vui, tấp nập mà dân gian còn lưu truyửn Thứ nhất Kinh Kử³, Thứ nhì Phố Hiến.
Vử cấu trúc của Kinh thà nh thì cả Hoa Lư thời Đinh-Tiửn Lê và Thăng Long thời Lý đửu có những nét tương đồng, đửu có hai vòng thà nh mà sử sách ghi chép cũng như hiện còn lưu giữ những dấu tích:
Thà nh Hoa Lư gồm có thà nh nội và thà nh ngoại. Giữa thà nh Nội và thà nh Ngoại không lồng và o nhau theo vị trí trong ngoà i mà gần như là song song với nhau, ngăn cách nhau bằng dãy núi Phi Vân, nối thông với nhau bởi một quèn gọi là Quèn Vông vì trên quèn đó có rất nhiửu cây lá vông mọc xanh tốt um tùm.
Cả thà nh nội và thà nh ngoại của thà nh Hoa Lư đửu có hai vòng Thà nh. Ở khu thà nh ngoại, vòng thà nh bên ngoà i giống như thà nh Thăng Long là tường thà nh phía đông nối từ núi Dãng Sang núi Thanh Lâu sang núi Cột Cử. Tường thà nh phía Bắc nối từ núi Cột Cử sang núi Chẽ và từ núi Chẽ sang núi Chợ. Ở phía đông có dãy núi Hang Quần; phía Tây có dãy núi Phi Vân chắn giữ; phía Nam có quèn Thụ Mộc như một tường thà nh.
Như vậy, thà nh ngoà i bao gồm cả cánh đồng Hậu Đường chạy đến Hang Luồn (Xuyên Thủy Động) và quèn Thụ Mộc. Vòng thà nh ngoà i vừa là chiến lũy khi có chiến sự xảy ra, lại vừa là đử phòng nước lũ lụt của sông Hồng Long, giống như La Thà nh Thăng Long vậy.
Ở khu thà nh nội thà nh Hoa Lư vòng thà nh bên ngoà i từ núi Cánh Hà n sang núi Nghẽn vử phía bắc; còn ở phía đông cũng chung với dãy núi Phi Vân của thà nh ngoà i; phía tây có dãy núi Chùa Thủ chắn giữ; phía nam là núi đá bao bọc không cần phải dùng tường thà nh.
Vòng thà nh trong thà nh nội Thà nh Hoa Lư thời Đinh-Tiửn lê giống như Cung Thà nh, Cấm Thà nh của Thà nh Thăng Long thời Lý. Năm Kỷ Tửµ (1029) Thà nh Thăng Long xây dựng thêm Long Thà nh ở trong cùng.
Thà nh Thăng Long thời Lý được các nhà nghiên cứu xác định là thà nh của Cao Biửn. Vòng Thà nh ngoà i đến nay vẫn còn dấu tích đó là địa danh La Thà nh. Các tường Thà nh nà y đửu được đắp bằng đất và dựa và o địa thế tự nhiên mà đà o đắp. Các cửa Thà nh chỉ là những khuyết của tường Thà nh mà không xây đắp cổng hay lầu cổng (Môn Lâu), như các tòa ô thà nh ở đời sau (giống như lối đi đặc biệt ở phía đông bắc thà nh Hoa Lư được phát hiện trong đợt khai quật khảo cổ học năm 1970).
Như vậy, vử cấu trúc Thà nh Hoa Lư và Thà nh Thăng Long có những nét giống nhau là đửu có hai vòng Thà nh, đửu không xây dựng các cổng ra và o (Môn Lâu) như các tòa thà nh đời sau nà y; chỉ khác nhau ở chỗ: Thà nh Hoa Lư dựa và o thế núi non hiểm trở mà xây dựng tường thà nh, còn ở Thà nh Thăng Long tường thà nh chủ yếu xây đắp bằng đất.
Vử kiến trúc cung điện thì ở Thà nh Hoa Lư và Thà nh Thăng Long đửu có những điểm giống nhau là các cung điện đửu quy tụ vử tâm điểm và đối xứng nhau qua tâm điểm.
Năm Giáp Thân (984) Vua Lê Đại Hà nh cho xây dựng nhiửu cung điện cột dát và ng dát bạc khá lộng lẫy như: Điện Bách Bảo Thiên Tuế ở giữa; Các điện Phong Lưu, Cực Lạc, Tử Hoa; Bồng Lai đối xứng nhau ở hai bên đông tây tả hữu; Còn ở Thà nh Thăng Long năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) Lý Thái Tổ cho xây dựng điện Cà n Nguyên ở giữa; Các điện Tập Hiửn, Giảng Vũ, Nhật Quang, Nguyệt Minh đối xứng nhau ở hai bên tả hữu.
Các mô típ hoa văn trang trí trên vật liệu xây dựng kiến trúc cung điện đồ dùng trong sinh hoạt cũng có những nét tương đồng thật đáng trân trọng.
Những viên gạch trang trí hoa văn hình hoa sen ở Thà nh Hoa Lư là cơ sở để các nghệ nhân dân gian thời Lý phát triển với những họa tiết trang trí phong phú hơn, thà nh những viên gạch có hoa văn hay trang trí hình hoa sen, hoa cúc khá rực rỡ. Những con vịt bằng đất nung phát hiện ở Thà nh Hoa Lư là hình mẫu để các nghệ sĩ tạo hình thời Lý tạo nên những con vịt đất nung nhìn tươi tắn, mịn mà ng, xinh đẹp. Một số bát, đĩa, bình gốm ở Hoa Lư cũng là những khuôn mẫu dáng hình để các nghệ nhân dân gian thời Lý chế tác ra các đồ dùng gốm bát, đĩa, bình, lọ, liễn, chậu... được pha lên lớp men ngọc trắng ngà thật là tinh tế và đẹp mắt.
Ngà y nay ở Hoa Lư-Thăng Long Hà Nội còn lưu giữ những địa danh mang đậm dấu ấn lịch sử văn hóa truyửn thống đất quốc đô như: Tháp Báo Thiên; Chùa Nhất Trụ-Chùa Một Cột; Chùa Bà Ngô; Chùa Am; Đình Ngang; Cầu Đông; Cầu Dửn; Cột Cử; Đông Môn; Trà ng Tiửn; Ngã ba Bồ Đử; Cống Chẹn...
Những địa danh lịch sử văn hóa truyửn thống trên đã gợi lên bóng dáng của Thà nh cổ Hoa Lư ở đất Kinh thà nh Thăng Long mang những nét tương đồng, là chứng tích của sự kiện lịch sử trọng đại trong cuộc dời đô của vua Lý Thái Tổ từ Hoa Lư ra Thà nh Đại La-Thăng Long Hà Nội đã ngà n năm qua.
Hoa Lư-Thăng Long Hà Nội có những nét tương đồng vử vị trí địa lý; hà nh chính; kinh tế lịch sử văn hóa và địa danh... là những minh chứng mang các giá trị, ý nghĩa lịch sử văn hóa như là sự nối tiếp truyửn thống dựng đặt đất Quốc Đô thời thống nhất, độc lập, tự chủ triửu Đinh-Tiửn Lê; xây dựng phát triển quốc gia dân tộc Đại Việt thời Lý và các đời tiếp theo với Thăng Long-Hà Nội to đẹp hơn, bử thế hơn; Là nơi hội tụ của mọi miửn đất nước; Là nơi chung đúc vương khí của núi sông, anh linh của đất trời; Dung hòa giữa tinh hoa văn hóa dân gian truyửn thống với văn hóa cung đình lung linh tửa sáng muôn sắc mà u rực rỡ, trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, xây dựng phát triển quốc gia dân tộc Đại Việt.