Tô Hoài - Dân kẻ chợ
Chuyển động Hà Nội - Ngày đăng : 10:33, 24/09/2010
Kẻ chợ là tên gọi dân gian kinh thà nh Thăng Long ngà y xưa. Đời sống kinh tế - xã hội của Kẻ chợ gắn bó mật thiết với mạng lưới chợ - phố Kẻ chợ được xem là nơi phồn vinh bậc nhất, đương thời có câu Nhất Kinh kì, nhì phố Hiến.
Từ Kẻ Chợ có một nét đặc sắc riêng và xét vử mặt ngữ nghĩa, ở từ nà y tiửm ẩn nhiửu yếu tố lịch sử, văn hóa, phong tục... Người Hà Nội còn được gọi là dân kẻ chợ. Những ứng xử của Người Hà Nội Tô Hoà i cũng mang dấu ấn lịch sử, văn hóa, phong tục... của dân kẻ chợ.
Tuy không nằm trong văn bản nhà nước của các triửu đại, song từ Kẻ chợ có một nét đặc sắc riêng và luôn ở nơi cửa miệng người dân. Từ kẻ chợ (không viết hoa) được thích là Nơi đô thị, thường dùng để chỉ kinh đô Thăng Long. Bà i viết nà y chỉ xoay quanh văn hóa (ứng xử nơi) kẻ chợ, cụ thể hơn là xoay quanh dân kẻ chợ Tô Hoà i, vì thông qua con người có thể hiểu văn hóa của một cộng đồng. Nơi đây nhịp sống tấp nập, đầy những sắc mà u mà không thấy ở đâu khác: hoạt động kinh doanh tập trung có lịch sử lâu đời với những bí quyết riêng, dựa và o chữ tín và cơ chế tin đồn, tính đa văn hóa, đa chức năng.
Tô Hoà i (ảnh internet)
Trần Đăng Khoa nói: Tô Hoà i thực là nhà văn chuyên nghiệp. Nghĩa là ông hoà n toà n sống được bằng nghử văn. Ngồi đâu, ông cũng viết được văn kể cả trong những lúc hội họp. Dân kẻ chợ là như vậy, trong bất cứ hoà n cảnh nà o cũng là m việc được.
Nhà văn Tô Hoà i tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại thị trấn Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội. à”ng tham gia cách mạng từ trước Cách mạng Tháng Tám (1945) trong Hội ài hữu công nhân, Hội văn hóa cứu quốc. Từ năm 1945-1958: Là m phóng viên rồi chủ nhiệm báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1957- là Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1958 đến năm 1980 là Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt nam. Từ năm 1986 đến năm 1996: Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
Trong hơn 150 tác phẩm đã xuất bản, thì nổi bật là truyện dà i Dế mèn phiêu lưu ký, các tiểu thuyết Quê người 1943; Truyện Tây Bắc 1954; Miửn Tây 1960; Quê nhà 1970; tác phẩm mới nhất là Ba Người Khác Tô Hoà i đã được nhận rất nhiửu giải thưởng trong và ngoà i nước. Cao nhất là giải thưởng Hồ Chí Minh vử Văn học-Nghệ thuật.
Tô Hoà i sống chủ yếu ở Hà Nội, ông nhận xét: Phố phường vử cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngà y xưa thế nà o thì bây giử vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nà o cũng được. Vỉa hè vẫn là vỉa hè cũ ở các phố Ngô Quyửn, Hà ng Khay, Trà ng Tiửn, Hà ng Bà i, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ, đầu vỉa hè còn bọc đá xanh lấy từ núi Thầy, núi Trầm Lý.
Đi trên đường phố Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng là hệ thống cũ. Vì thế, bây giử mưa, đường Hà Nội ngập úng là tất nhiên, vì quá tải. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ Marseille. Đó là nắp cống đúc từ bên Pháp, rồi mang sang bán ở ta..
à”ng kể tiếp: Nhà cổ có hai cửa. Cửa trước dà nh cho chủ nhà đi. Cửa sau dà nh cho gia nhân, đầy tớ, hoặc chuyển phân rác và đồ phế thải. Hà Nội xưa có những vùng riêng biệt. Thà nh thị không phải là một từ không đâu. Đó là hai khu cụ thể. Thà nh là nơi vua quan ở, còn thị là nơi ở của dân chúng, chủ yếu là dân buôn bán phục vụ cho thà nh. Phải những người có tà i quan sát như Tô Hồi mới thấy lý do tại sao nhà có cửa trước, cửa sau.
à”ng nhận xét: Người Hà Nội có nét hà o hoa phong nhã, nhưng đấy không phải tận gốc mà là tinh hoa của nhiửu vùng đất tạo nên. Dân Hà Nội là dân tứ chiếng. Vì thế, ở Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyên cục bộ địa phương. Tôi cho đó cũng là một nét rất hay của Hà Nội. Nhận xét của ông hết sức tinh tế, cho thấy tính hòa đồng của người Hà Nội, dung nạp tất cả, để rồi tất cả biến đổi, nâng cấp thà nh hà o hoa phong nhã. Điửu nà y chỉ Hà Nội mới có.
Nhận xét sau của ông: Đã có phố Hoà ng Hoa Thám rồi thì không nên có phố Yên Thế nữa, hay đã có phố Nguyễn Thái Học rồi thì còn thêm phố Yên Bái nữa là m gì, Tô Hồi có cái lối liếc xéo rất đặc trưng dân kẻ chợ. Chỉ liếc một cái rất hóm hỉnh có phần tinh quái là thâu tóm hết ngõ ngách, phong tục, tập quán kẻ chợ. Trong sách Chuyện cũ Hà Nội gần 300 trang, ông kể từ việc bắt rượu, tiếng rao đêm, thuế thân, thịt chó, đến trèo me, trèo sấu, rồi đà o rượu, đà o hát, đến bắt chuột, bẫy chim, chơi chim, rồi tà u điện đêm, đi phu mộ, chết đói.... Vậy ai qua mặt được dân kẻ chợ Tô Hoà i.
Người Hà Nội (ảnh minh hoạ)
Vử Người Hà Nội có bà i viết của Hồng Hưng, có bà i viết của Lê Phú Khải. Tuy không phải là nhà nghiên cứu, nhưng họ là người Hà Nội gốc kể vử người Hà Nội gốc: Hồng Hưng có tám nhận xét vử Người Hà Nội:
1. Coi trọng đời sống gia đình. Một gia đình yên ổn, nửn nếp, có trên có dưới, có tình có nghĩa. Khó hy sinh gia đình cho sự nghiệp, lý tưởng.
2. Có ý thức mạnh mẽ vử lợi ích cá nhân, quyửn tư hữu, không dễ để người khác xâm phạm, dễ bị coi là khoảnh, tính tốn, nhưng cũng không thích xâm phạm lợi ích người khác, sòng phẳng, rạch ròi (yêu nhau rà o giậu cho kín).
3. Coi trọng tự do cá nhân của mình cũng như của người. Trong quan hệ ngồi gia đình như bà con, bè bạn, đồng nghiệp, hà ng xóm... giữ giới hạn ở mức phải chăng, thoang thoảng hoa nhà i. Ngại tranh chấp, đối đầu, dĩ hòa vi quý. Dễ bị xem là khôn ngoan, dễ trở thà nh ba phải, hòa cả là ng.
4. Lịch sự, tế nhị trong giao tiếp xã hội, cả vử ăn vận lẫn lời ăn tiếng nói. Ghét sự thô thiển, lố bịch, trắng trợn. Ngại nói toạc móng heo. Chỉ muốn là m người tử tế, biết điửu.
5. Không chỉ cắm cúi là m việc mà biết hưởng thụ cuộc sống, và hưởng thụ một cách hà o hoa, thanh nhã có chừng mực, không mê đắm, sa đà hay sả láng.
6. Tôn trọng nửn nếp có sẵn: gia phong, luật lệ, quy ước xã hội. Có thể thích nghi với sự thay đổi chứ không chủ động tạo nên thay đổi.
7. Trong danh dự, trọng chữ tín trong các quan hệ. Tự trọng trong công việc, có lương tâm nghử nghiệp. Có thể kiên nhẫn để vươn lên hoặc khôi phục quyửn lợi, địa vị bị mất một cách từ tốn. Không thích mạo hiểm hay thà nh công bằng mọi giá.
8. Trung dung, một vừa hai phải. à”n hòa, không cực đoan hay quyết liệt. Lý trí mạnh hơn tình cảm. Tư duy lô-gích mạnh hơn trực cảm, bản năng.
Lê Phú Khải nói vử đặc trưng phổ quát của người Hà Nội:
Người Hà Nội ưa thích sự liêm chính trong sạch có máu tham nhũng, không thích hà hiếp kẻ dưới, người Hà Nội thanh lịch đến lịch lãm. Họ rất hà o hoa, phong nhã, có trí thông minh, có tư duy sắc bén, lập luận chặt chẽ, có ngôn ngữ trong sáng, gọn gà ng, có sức hấp dẫn với mọi người. Nếu ở một thời đại thanh bình, người Hà Nội sẽ là những nhà khoa học trung thực, họ có phẩm chất của những vị tôi hiửn trong một triửu đình có vua sáng, có minh quân. Người Hà Nội không có chí tiến thủ, không dám là m việc lớn khai sơn phá thạch lay thà nh nhổ núi như các cụ Phan, cụ Hồ ở miửn sông Lam Núi Hồng. Người Hà Nội sống khép kín, lo gia đình vợ con, không xâm phạm của ai, quan hệ thì có đi có lại, không hà o phóng như người Nam Bộ. Người Hà Nội sống bình lặng, lịch lãm, tôn trọng lẽ phải đạo đức và chính nghĩa thích gặm nhấm nỗi cô đơn, buồn tủi của kiếp người. Người Hà Nội không ưa sự ồn à o phô trương, rất ghét thói trưởng giả học là m sang kệch cỡm lố bịch. Họ sống bình lặng, nhưng rất sà nh điệu ăn chơi.
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhà n viết tới 30.000 chữ vử NGƯửœI Hà€ Nử˜I Tà” HOà€I. à”ng có quan sát, có thu thập ý kiến của nhiửu người vử Tô Hoà i... nhưng mỗi lúc một khác.
Trong bà i Tô Hoà i-người sống tận tụy với nghử Vương Trí Nhà n viết: Là Người Hà Nội gốc, ông giữ được và ngà y cà ng trau dồi cái bặt thiệp riêng, trong sự ăn uống, sự tiếp đãi khách khứa, ở đấy cái sà nh sửi đã trở thà nh tự nhiên, và đứng đằng sau nó, là một nhu cầu ngà y cà ng cao vử sự hưởng thụ. Song chỗ hơn người của Tô Hồi là không bị những sà nh sửi đó rà ng buộc.
Trong bà i Cuộc phiêu lưu giữa trần ai cát bụi-sách Nghiệp văn, NXB Văn hóa Thông tin, 2001), Vương Trí Nhà n viết So với các cây bút đương thời, Tô Hoà i có lẽ là nhà văn già u chất chuyên nghiệp bậc nhất... Một nét đặc biệt cũng thấy rõ trong đời viết văn của Tô Hoà i là ngồi nghử viết, ở ông luôn luôn có một cuộc sống khác, cuộc sống người cán bộ chính trị, hoặc nhìn rộng ra, cuộc sống nhà hoạt động xã hội.