Hà  Nội: Аắng lòng cụ ông gần 90 lội đồng bắt tép nuôi vợ

Media - Ngày đăng : 10:39, 07/10/2010

(NHN) Trong suốt 7 năm qua, người dân thôn Аồng Lư, xã Аồng Quang, Quốc Oai, Hà  Nội vẫn thường thấy một cụ ông ở tuổi cổ lai hy ngà y lại ngà y mang cái dậm, cái đó ra đồng để đơm cá bắt tép bán lấy tiửn nuôi vợ bệnh tật triửn miên.

Một buổi chiửu nắng gắt, chúng tôi đến thăm ông Nguyễn Văn Quý và  vợ là  bà  Nguyễn Thị Chén tại một gian phòng ở đình là ng thôn Аồng Lư mà  hai cụ ở nhử từ năm 2004 đến nay.

Khổ quen rồi...

Trong gian phòng lụp xụp chừng dăm mét vuông của hậu cung đình là ng Аồng Lư, một cụ ông da đồi mồi, khuôn mặt hốc hác vì sương gió, kham khổ đang chăm sóc người vợ luôn bị những cơn đau do bệnh tật hà nh hạ. Không ai có thể ngử rằng hai cụ có tới... bảy người con. Cụ Quý giãi bà y: Tôi sinh ra được bảy người con, ba trai tên Trượng, Lượng, Аại và  bốn con gái tên Quynh, Minh, Bảo, Thoa. Trai thì ở gần đây cả còn con gái thì hầu hết lấy chồng xa.

Cụ Quý bên người vợ ốm đau thường xuyên.

Cụ bảo: Cháu (cụ Quý tự xưng - PV) khổ quen rồi chú ạ. Bố mẹ cháu chết sớm, bản thân phải đi ở đợ cho nhà  cụ Bảy Miệu mãi tận trên Sơn Tây (Hà  Tây cũ). Mà  ngà y ấy nà o có được ăn cơm, có ăn thì cũng phải cùng ăn với chó. Lớn lên không có ruộng đất, nhà  cử­a lại phải đi ở nhà  chùa. Sư Vũ bảo cháu là  nặng căn nặng quả cần phải quy y cử­a Phật mới giải thoát được, nhưng cháu không tin. Аã có lần do cuộc sống khó khăn nên cháu đã có ý định cạo đầu đi tu, nhưng vì mình không có căn duyên nên không thà nh. Lớn lên, cụ Quý lập gia đình với bà  Nguyễn Thị Chén sau cải cách giảm tô một năm. Cuộc sống dần ổn định, lần lượt 7 đứa con ra đời. Những năm đói kém cả hai vợ chồng có lúc phải ăn củ chuối chấm muối để cầm hơi còn cháo thì để dà nh nuôi con. Tằn tiện chắt chiu, cụ cũng mua được một mảnh đất bử hoang trong là ng dựng lên túp lửu để là m nhà  ở. Thời gian thoi đưa, con cái hai cụ lớn lên và  đửu đã lập gia đình. Những tưởng như vậy là  hai cụ có thể nghỉ ngơi an hưởng tuổi già  bên đà n con cháu sum vầy... Có gà  có thóc... mới được con "yêu" Nhưng cụ đâu có ngử cuộc đời thay đổi, trái đất chuyển xoay. Theo thời gian, đất cát lên giá vùn vụt, các con bảo cụ là  bán bớt đi mảnh đất ở để xây nhà  cao cử­a rộng, bố mẹ đã khổ nhiửu rồi giử phải được hưởng hạnh phúc.

Cụ Quý đứng trước góc sân đình mà  dân là ng thương tình cho ở nhử.

Năm 1999, cụ Quý đồng ý bán đất, đưa hết tiửn cho các con xây nhà , sau khi có nhà  mới cụ cảm thấy phần nà o được an ủi lúc tuổi già . Nhưng cũng từ đấy các con bắt đầu đổi thay tính nết. Năm 2002, cô con dâu út đưa đứa cháu nội ra vườn đi vệ sinh, trời mùa đông thời tiết khô hanh, cô liửn cầm chiếc bật lử­a châm và o đống rơm để cho... cháu vệ sinh an toà n. Ngọn lử­a bùng lên và  sự giận dữ được trút lên đầu cả hai cụ. Và  cũng từ đó ngọn lử­a trong lòng của cả con dâu và  con trai ngùn ngụt cháy.

Không chịu đựng nổi sự chử­i rủa, mắng mử của các con, cụ liửn đi ở nhử nhà  ông Oai, ông Thinh - vừa là  người nhà  lại vừa là  hà ng xóm. Аược một thời gian các cụ để dà nh được một chút thóc lúa thì cậu con trai út lại đón hai cụ vử để chăm sóc. Khi thóc lúa hết, các cụ lại bị hắt hủi. Cụ kể: Từ năm 2004 đến nay nó đã đón cháu vử bốn lần rồi, khi hết lúa cũng là  bốn lần cháu phải ra đình. Аã không dưới một lần đứa con trai út cầm dao kử và o cổ cụ và  nói: à”ng cho mà y nhát bây giử. Sợ lắm chú ạ, giá như người ngoà i thì còn có pháp luật xử­ lý chứ con mình thì ai xử­ hả chú?".

Cụ cho biết thêm: Khi còn ở thôn Аồng Lư thì con cả bảo: à”ng lên rừng Tiến Xuân mà  ở với chú Аại cho không khí trong là nh. Lên Tiến Xuân được một thời gian, tôi có chăn nuôi được hơn trăm con gà , đến ngà y thu hoạch thì đứa con út lại bảo: Thôi, ông vử quê mà  sống, ở đó còn có họ hà ng, anh em và  tổ tiên chứ ở đây thì có ai.

Cứ như thế đã 4 lần cụ phải ra đi rồi lại trở vử như những người vô gia cư, không con cái. Có hôm, đêm đến cụ phải một mình ôm chiếc chăn chiên lên rừng để ngủ cho qua, chử đến sáng rồi vử. Trên đường vử miệng thì khát khô nhưng họng thì đắng ngắt, đến nước lã nuốt cũng không trôi. Sau đó cả hai cụ đã quyết định ra ở nhử đình là ng, ở đó có ba phòng còn bử trống. Và  cũng từ đó cụ ông Nguyễn Văn Quý không cho phép mình ốm, vì cụ biết rằng nếu chẳng may mình ốm thì chỉ có nước là  cả hai vợ chồng đửu chết mà  thôi. Hai cụ được nhà  nước chia cho gần 400m2 đất canh tác và  nhập cùng khẩu với các con cho tiện. Khi cụ ra khửi nhà  thì cũng là  lúc các con trả ruộng lại để các cụ sản xuất. Chú ơi, trên đời nà y chắc nhiửu người còn khổ, nhưng có lẽ chẳng ai khổ bằng tôi. Gần 400m2 đất thì các con chia cho tôi tới 7 thử­a, mỗi thử­a cách nhau khoảng và i trăm mét. Trước khi chia chúng nó bảo chia nhử ra như vậy để tôi dễ là m "kẻo rồi ông lại bảo chỗ ruộng tốt thì không chia lại đi chia ruộng xấu. Bây giử sức tôi thì đã gần tà n, lực tôi đã kiệt, muốn cho tôi thế nà o thì cho, kêu ca thì chúng lại bảo già  rồi mà  còn lắm mồm, nói ít thôi cho con cháu còn nhử".

Аể có nước sinh hoạt hà ng ngà y cụ Quý phải đi gánh cách nhà  chừng 1km.

May mà  tôi còn đứa con gái út sinh năm 1978 tên Thoa lấy chồng cùng là ng chứ không thì cũng đến chết. Cứ đến mùa vụ là  nó lại đem con ra cho tôi trông, còn ruộng thì nó là m giúp cho. Nhưng mà  cháu nghèo quá anh ạ. Tôi hửi cụ vụ mùa thóc lúa phơi ở đâu, cụ cho biết: Từ năm 2004 tôi ra đây, là ng cho tôi ở nhử trong đình và  yêu cầu tôi hà ng ngà y phải quét dọn cho sạch sẽ, còn lúa thì phơi ở sân đình, các cụ cho đấu thầu 20m2, mỗi năm nộp 60.000 đồng. Аem vấn đử nà y đến trao đổi với ông Nguyễn Аạt Ngô, Hội trưởng Hội Người cao tuổi thôn Аồng Lư thì được biết: Là ng có giao cho các cụ quản lý đình. à”ng Quý ở thì phải có trách nhiệm quét dọn cho sạch sẽ. Trước đây chúng tôi có cho dân là ng đấu thầu sân đình để phơi phóng, ông Quý muốn phơi thì phải đóng tiửn để dân khửi tranh chấp, tị nạnh. Số tiửn ấy chúng tôi sung và o công quử¹ để sinh hoạt chứ không bử túi riêng ai. Còn chuyện của gia đình ông Quý, Hội Người cao tuổi có đến can thiệp, hoà  giải nhiửu lần nhưng con cái họ không thay đổi gì. Năm 2007 nhiửu cán bộ trong thôn, xóm do thấy bất bình trước việc là m của các cụ bởi Riêng cụ Quý có hoà n cảnh đặc biệt, lại phải quét dọn đình không công nên phải được phơi phóng mà  không phải đấu thầu, không phải trả tiửn (PV). Từ đó các cụ mới không thu tiửn.

Bắt tép nuôi vợ

Hà ng ngà y, nguồn thu nhập chính của cụ ông gần 90 tuổi nà y dựa chủ yếu và o những con tôm, con tép cuối cùng của mùa nước cạn mà  ông bắt được ngoà i đồng. Cụ Quý cũng nuôi được hơn chục con gà , ban ngà y thì chúng tha thẩn bới giun, tìm những hạt thóc rơi vãi ngoà i đường, tối đến, gà  và  người cùng chung nhau gian phòng rộng chưa đầy 6m2 ấy. Ngoà i ra cụ còn trồng được khoảng và i mét vuông rau để ăn hà ng ngà y, nhưng mấy cây xà  cừ to quá che hết cả khoảng vườn nên cũng chẳng ăn thua. Gà  thì không dám thịt vì đắt, còn rau tuy rẻ nhưng không trồng cũng chẳng có cái mà  ăn. Có lẽ niửm vui lớn nhất của cụ Quý giử nà y là  khi nhìn ngắm đà n gà  kiếm ăn ngoà i sân, trong vườn.

Công việc hà ng ngà y của cụ Quý.

Cụ gõ tay xuống chiếc phản kê ở giữa gian phòng bảo: Аây là  tấm phản của cháu khi còn sống thì là  giường nằm, đi đâu cháu cũng mang đi, đó là  vật bất ly thân, khi nà o chết thì là m quan tà i cho cháu. Cháu đã có nhời nhử bác thợ mộc ở đầu là ng hơn một năm nay rồi. Tôi cúi nhìn chiếc phản mình đang ngồi rồi lại nhìn và o gương mặt có nước da ngai ngái của cụ mà  thấy lòng mình tê buốt. Trao đổi với chính quyửn xã vử hoà n cảnh đặc biệt của gia đình cụ ông Nguyễn Văn Quý, bà  Nguyễn Thị Binh, Phó Chủ tịch UBND xã Аồng Quang cho biết: Chính quyửn xã biết rất rõ việc nà y.

Nhiửu lần chúng tôi yêu cầu chính quyửn địa phương, tổ hoà  giải, mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ thôn đến động viên các con ông ấy là  phải sống sao cho tốt đời đẹp đạo. Là  con cái thì phải biết chăm sóc cha mẹ khi vử già , nhưng chỉ được và i ngà y rồi đâu lại và o đấy. Thực ra các anh ấy không vi phạm pháp luật nên không thể xử­ lý. Chỉ có điửu nếu đánh giá vử đạo đức con người và  đạo là m con thì không thể chấp nhận được trong bất cứ xã hội nà o.

Bee