Chuyện lạ quanh ngôi nhà của thi hà o Nguyễn Khuyến
Truyện - Ngày đăng : 14:16, 17/01/2011
Giải mã vườn Bùi
Khu vườn trở nên xanh mướt khi bén hơi xuân. à”ng Nguyễn Thanh Tùng hậu duệ đời thứ 5 của nhà thơ Nguyễn Khuyến, dẫn tôi thăm vườn. Vườn Bùi chốn cũ; Bốn mươi năm lại lụ khụ vử đây, Nguyễn Khuyến đã viết như vậy và o năm 1884 khi vừa tròn 50 tuổi, cáo bệnh, trả chức quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang), vử với mảnh đất cha ông sống cuộc đời thanh bạch, vui thú điửn viên.
Nhà Nguyễn Khuyến. |
Vì sao lại gọi là vườn Bùi? àt ai để ý giữa những cây lưu niên nhãn na, vú sữa, ngâu, bưởi cùng cúc, đà o, hồng, lan, có một cây vối già khẳng khiu nép ở góc vườn. Bậc túc nho Nguyễn Khuyễn vẫn thường uống thứ nước dân dã nà y.
Nhưng còn một lý do sâu xa hơn thế. Quê gốc ở Treo Vọt, Can Lộc, Hà Tĩnh di cư ra Yên Đổ cho đến đời Nguyễn Khuyến thì được trăm năm. Người xứ Nghệ gọi cây vối là cây Bùi. Danh xưng vườn Bùi để con cháu không quên quê cũ.
Cổng và o nhà Nguyễn Khuyến rêu phong, cổ kính, ở trên có ba chữ nho Môn Tử Môn. à”ng Tùng thuyết minh: Môn Tử môn có nghĩa là cửa ra và o của học trò. Đây là một lời răn dạy nghiêm khắc vử đạo là m trò. Trước khi và o nhà thầy cho dù là quan lớn hay thứ dân đửu phải đúng lễ nghĩa, xuống ngựa, xuống xe đi bộ và o viếng thầy.
à”ng Nguyễn Thanh Tùng - hậu duệ Nguyễn Khuyến. |
Cả đôi câu đối nà y nữa - ông Tùng chỉ tay và o cổng: Kử³ duyên dong duy kử³ đồ ly từ/ Thiểu cáo đại khả dĩ dung tư cái (Và o luyện đức, luyện tà i để giúp dân giúp nước, sau đỗ đạt mang võng lọng mời thầy ra).
Và o cửa Môn Tử Môn, trước mặt tôi là ngôi từ đường được xây theo phong cách kiến trúc truyửn thống, nhưng vẫn có nét phá cách đầy thâm ý. à”ng Nguyễn Thanh Tùng cười bảo: Cách xây ngôi nhà nà y: ngoà i là đại tế, trong là hậu cung. Chỉ những người được sắc phong thần thì mới được xây như thế nà y.
Nhà cụ có lườ¡ng long chầu nguyệt, có 9 bậc. Thường thì người ta để hình lườ¡ng long chầu nguyệt trên nóc nhà nhưng riêng cụ lại để dưới đất. Cụ giải thích với giới chức sắc là là m như vậy để tránh nắng hướng đông và hướng tây nhưng thực ra thì thâm ý của cụ là vua nhà Nguyễn bán nước nên không cho cườ¡i lên đầu (rồng), chỉ chầu đằng trước nhà thôi.
Đi sâu và o từ đường, gặp những nghiên bút, sắc phong, câu đối gợi lên những lấp lánh khoa bảng một thời. Đó là tấm biển à‚n tứ vinh quy, Nhị giáp tiến sĩ do vua Tự Đức ban cho Tam Nguyên Yên Đổ.
Hậu cung vẫn còn lưu bộ triửu phục của quan ngự sử Nguyễn Khuyến. Có bức tượng tạc hình Tam Nguyên Yên Đổ chống gậy trúc, khoan thai nhìn trời xanh. Cây gậy ấy là quà tặng của con trai Nguyễn Khuyến là Nguyễn Hoan sau một lần trảy kinh ứng thí.
Chuyện rằng, trên đường vử qua mạn Thanh Hóa, Nguyễn Hoan đang mải mốt vử quê sau cả tháng trời lửu chõng, ngang đường, có một cụ già bước đến, bảo: Nhìn ông, tôi biết ông có cha già . Xin tặng ông cây gậy nà y để dâng cha!.
Ngôi từ đường còn giữ lại được như ngà y nay là cả một kử³ tích. Năm 1947, cụ thân sinh của ông Nguyễn Thanh Tùng (hậu duệ đời thứ tư của cụ Nguyễn Khuyến) là m Tham mưu trưởng Tỉnh đội Nam Hà . Giặc Pháp biết hậu duệ cụ Nguyễn tham gia cách mạng, tìm cách rót bom xuống bắn phá. May thay, tay đồn trưởng bốt Cầu Sắt đã cấm lính của mình không sử và o hiện vật.
Tay đồn trưởng nguyên văn thế nà y: Đây là đửn thử một vị thánh nho, một danh nhân, muốn sống không được đụng đến!. Nhử thế, dưới nửn nhà , du kích đà o một cái hầm bí mật để hoạt động.
Và o những năm 1950, tao đoạn loạn lạc, kẻ trộm và o lấy trộm đôi rồng nạm ngọc trong ngôi từ đường. Tên trộm chẳng bán được cho ai. Đến khi sắp chết, người nà y mới bảo con cháu, lấy kỷ vật ấy để trả lại cho con cháu cụ Nguyễn.
Lại chuyện khác, cách đây mươi năm, có bà cụ 90 tuổi sai con cháu cáng đến tận vườn Bùi, đòi gặp ông Tùng cho bằng được. Bà đến mang trả một mẩu gỗ, nguyên là một câu đối của cụ Nguyễn Khuyến. Bà cụ đến xá tội vì đã trót dại lấy câu đối của cụ... đóng giường cưới cho con trai, cũng bởi cái thời kử³ gỗ lạt hiếm như gạo châu, củi quế. à”ng Tùng nhận mẩu gỗ, cất giữ trong số những kỷ vật hiếm hoi còn sót lại.
Nhân vật chính của chùm thơ thu
Bước ra khửi ngôi từ đường, trước mặt tôi là ngõ trúc quanh co và ao thu lạnh lẽo, nước trong veo. Cái ao đặc trưng của vùng đồng quê chiêm trũng, nước trong leo lẻo, quả ổi và ng ruộm bên bử rụng xuống, là m tan vỡ cả một mảnh mây trời. Nhân vật chính trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến cũng trải qua nhiửu bước thăng trầm.
Ao thu lạnh lẽo. |
Trước, ao rộng mênh mông, chạy đến tận mép con mương bao quanh là ng. Ấy vậy nên Nguyễn Khuyến đã viết: Trước ngõ hơn chừng một mẫu ao; Cá không phải thả vẫn dồi dà o; Người già u là m chủ lời hà ng vạn; Kẻ khó mua vử kiếm được bao; Gạo đắt khôn xoay lo đủ bữa; Nước sâu lại gặp cảnh mưa rà o; Già u nghèo ai biết nà o do số; Đừng oán sầu chi, gắng sức và o.
Và o thập kỷ 1960, hợp tác xã trưng dụng mẫu ao nà y, rồi kè bử, đắp mảng, chia nhử thà nh dăm ba miếng. Hơn chục năm lại đây, từ khi từ đường Nguyễn Khuyến được nhà nước xếp bằng Di tích lịch sử Quốc gia, chiếc ao không còn rộng như xưa nữa, chỉ còn 6 sà o, nhưng được bè bử vuông vắn. Học sinh cấp III trường huyện đến trồng tre trúc quanh ao. Tre trúc đan cà nh đâm lá, tạo thà nh một khoảng xanh rì, ngăn với cánh đồng trước mặt, sớm trưa chiửu tối tiếng chim hót rộn cả góc vườn.
Cái ao nằm trong tính toán phong thủy của Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn Khuyến mệnh Hửa nên trấn trạch hai thủy một hửa để cân bằng âm dương. Hai thủy gồm cái ao lớn có bử cử thẳng ngăn ở giữa rồi đến cái lạch nước trong. Cái ao và lạch giống hình bút lông và nghiên mực của các nhà nho.
Giử đây, bên cạnh ao, lặng lẽ hiện lên chiếc chiếc bia hình bát giác khắc bà i thơ Thu Điếu bằng ba thứ tiếng: chữ Nôm, chữ quốc ngữ và tiếng Anh. Các nhà kiến trúc Thụy Điển vượt qua những rà o cản ngôn ngữ, đã yêu bà i thơ đến mức thiết kế nhà 8 mái để là m sao từ 10 đến 12 giử ánh nắng phải soi chiếu toà n bộ bà i thơ thì mới xứng.